Trọn bộ: Nam Du Huê Quang – dịch giả Tô Châu
Tập thứ 1
Hồi thứ nhấtThượng- Đế hội thi bửu-bối,
Phật-Tiên Tam-giới đồng chầu,
Bởi Ngọc Hoàng Thượng Đế muốn thử các vì Tiên Phật, coi cách trị và phép tắc thần thông hay giỏi thể nào, nên nhất định ngày mùng ba tháng ba, mời đủ tam giới hội về Thông minh điện mà dâng phép. Y theo lệnh truyền của Ngọc Hoàng, đến ngày ấy chư Tiên, chư Phật, chư Thánh, chư Thần, các vị ở núi cùng thập điện Long vương về chầu đủ mặt. Ngọc Hoàng phán rằng: “Ta lấy làm vui mà mời các vị về đây, để hầu dâng những phép của các vị đã tu thành, hay khéo là dường bao, răn đời trị thế, trừ diệt những loài tà mị có đặng nhân đức ở thế gian không. Vậy thì các vị hãy vui lòng cho ta biết đi rồi ta sẽ trọng thưởng”. Ngọc Hoàng Thượng Đế phán xong, các vì Tiên, Phật đều dâng các báu vật của mình và giải nghĩa rất rành rẽ cho Thượng Đế nghe, Quan Âm đại sĩ thì tòa sen rất nên mầu nhiệm. Phổ Am Tổ sư dâng phất thủ. Hớn Chung Ly dâng cây quạt, Trương Quả Lão dâng cây gậy. Tào Quốc Cữu dâng cặp sanh. Lam Thể Hòa dâng hoa lam, Lữ Đồng Tân thư hùng kiếm, Lý thiết Quả ngọc hồ lô, Hà tiên Cô thiết trạo, Hàng Tương Tử thì ống sáo. Kế Tam Quan đại đế dâng cây giáo. Thánh mẫu Phụng Hoàng Sơn dâng bửu tháp, Diêm vương dâng nghiệt cảnh đài; ấy là cái kiến để soi tội phước rất là huyền diệu. Kể ra các vị đều giải bày rõ mỗi vật báu của mình cho Ngọc Hoàng nghe rất tỏ rõ. Ngọc Hoàng hết sức khen tặng. Kế đó Long vương đại hải dâng trái châu và giải rằng: “Tâu Thượng Đế, ngọc minh châu của tôi hễ ai trông thấy, thì cả đời không hề lâm vào tai nạn chi cả; còn hào quang chói rọi rực rỡ đêm ngày. Long vương chưa kịp dứt lời, kế Mã Nhĩ đại vương (vua núi) liền dâng trái bửu châu và tâu rằng: “Trái châu của tôi còn quý hơn của Long huynh nữa, là: Nếu muốn thâu các ngọc báu bất kỳ ẩn nấp chốn nào, nó chói thấu đều đem rút lên mà hội lại tất cả. Và hễ ai trông thấy, thì cả đời không hề có tai họa”. Ngọc Hoàng nghe xong rất khen ngợi Mã Nhĩ hơn Long vương. Xong rồi Ngọc Hoàng liền thưởng cho các vị mỗi người một bầu rượu tiên. Đoạn bãi chầu, ai về nơi ấy. Vì lẽ ấy, Long vương căm giận Mã Nhĩ vô cùng, về tới đền, liền đem chuyện ấy mà bàn luận cùng tướng sĩ; ai nghe cũng sôi sục lòng gan. Long vương quyết cử binh đánh Mã Nhĩ một trận cho biết tài cao thấp. Các tướng rất vui mừng. Rạng ngày xuất binh kéo đến cửa núi Mã Nhĩ mà đánh. Binh tuần của Mã Nhĩ về báo. Mã Nhĩ đoán biết Long vương vì mối thù hôm nọ, tức thì đốc quân hối tướng xông ra mặt trận. Liền kêu Long vương mắng rằng: “Ta với ngươi không thù nghịch chi, sao mi dám đến đây mà khiêu chiến hử? Thật là mi rất vô lễ lắm đó”. Long vương cười gằn đáp rằng: “Ngươi quên sao? Ta với ngươi rất là đại thù, ngươi dám sỉ nhục ta giữa nơi Thông minh điện có đủ chư Tiên, chư Phật thật là nhục nhã ta vô cùng. Nay ta quyết lấy đầu ngươi mà đền tội ấy. Ngươi mau dâng ngọc cho ta, thì ta tha cho ngươi sống, bằng cãi chớ trách”. Cả hai cãi cọ một hồi, bèn đấu chiến với nhau rất là kịch liệt. Mã Nhĩ yếu thế hơn, nhưng mà vì lòng tức giận chẳng chịu thua. Còn Long vương quyết lấy đầu kẻ nghịch cho đặng mới nghe. Đánh gần đôi ba trăm hiệp Mã Nhĩ mỏi mệt, Long vương thừa thế chém đầu Mã Nhĩ, rồi kéo binh về động.
Khi quân báo cho vợ Mã Nhĩ hay, (bà đương có thai nghén) kêu la rất thảm thiết. Con là Tam nhãn Tì Khưu còn nhỏ không đủ sức cự đương, phần thì mẹ mới thai nghén. Tì Khưu đành tu luyện mà đợi kỳ tuổi trưởng.
Nói qua Đức Thích Ca ở tại núi Linh Sơn. Ngày nọ có Độc Hỏa đại vương vì nỗi hiềm riêng, bởi núi Tuyết sơn xưa của Độc Hỏa nay Độc Hỏa muốn đòi lại, Độc Hỏa liền thân hành đến núi Linh Sơn vào Lôi Âm tự. Đến nơi Thích Ca Như Lai cũng chào hỏi tử tế và hỏi rằng:”Ngài đến viếng tôi, hay là có việc chi, xin cho tôi được biết?”. Độc Hỏa thưa rằng: “Tôi đến đây cốt là viếng Ngài và cầu nhờ Ngài mà nghe lời kinh kệ, cùng xin dùng một bữa cơm chay vậy thôi”.
Thích Ca truyền đệ tử dọn cơm chay cho Độc Hỏa dùng, nhưng các đệ tử đều bạch rằng: “Bạch sư phụ, vì hôm nay đã quá bữa cơm rồi, bởi đại vương đến trễ cho nên không có chỗ ngồi và cơm dư, xin sư phụ bảo đại vương ngày mai sẽ đến”. Độc Hỏa nghe nói nổi giận, liền trông thấy bên bàn dọn cơm rất ngon, bèn nói lớn rằng: “Ta dùng bữa nay mà thôi, đấy đã có chỗ thiếu gì, bất quá mấy người nhịn đói đỡ mà đãi khách không đặng sao?”. Dứt lời ngồi đại mà ăn.
Khổng Tước trông thấy kẻ vô phép nổi giận mắng rằng: “Ta nói cho ngươi biết, ngươi là quỷ vương sao dám cả gan đến đây làm điều ngang ngược với thầy ta”. Dứt lời bèn liệng cái chén vào mặt Độc Hỏa”. Độc Hỏa nổi nóng bèn hóa lửa mà đốt Khổng Tước đồng tử. Làm cho Khổng Tước bị cháy cả mình la vang động. Thích Ca thấy vậy can ra, nhưng Độc Hỏa chẳng kể đến, ỷ mình tài hóa lửa rằng hay, Thích Ca liền hóa nước mù sương mà cứu Khổng Tước, Độc Hỏa nổi giận nói sao Thích Ca lại cứu học trò như thế, bèn hóa lửa đốt núi Linh Sơn. Thích Ca hóa ra trăm rồng phun nước tắt liền, Độc Hỏa đốt không cháy, lại mắng chưởi om sòm. Thích Ca cười rằng: “Này Độc Hỏa, ta nói cho ngươi rõ, ta là người tu nhiều kiếp, ta là người đã có trước ngươi hơn mấy ngàn năm, những núi này và Tuyết Sơn xưa của ta, sao ngươi lại tranh giành, ta cũng vì lẽ từ bi mà tính êm với ngươi, sao ngươi cứ mong kiếm thế mà làm dữ hoài như thế?” Độc Hỏa rằng: “Tôi không nói vì lẽ ấy, song tôi tức giận, sao Ngài lại bênh đệ tử kìa?”. Kế đó Diệu Kiết Tường bước ra khuyên bảo Độc Hỏa hãy trở về, chớ nói nhiều điều mà mang khổ hại, Độc Hỏa thấy một đứa nhỏ nói với mình như vậy, bèn nổi nóng hóa lửa đốt Diệu Kiết Tường. Kiết Tường cười rán mà rằng: “Ta cho ngươi đốt, ta cốt là ngọn đèn trên bàn Phật, ta là hỏa tinh muôn kiếp nào có sợ lửa đâu, nếu ngươi đốt ta không đặng, ta đốt lại ngươi bây giờ đa”. Độc Hỏa không tin cứ đốt mãi, Diệu Kiết Tường nổi giận bèn hóa lửa đốt lại, phút chút Độc Hỏa đã hóa ra tro bụi. Thích Ca can không kịp, bèn la rầy Kiết Tường rằng: “Ngươi là người tu luyện, sao dám vô lễ sát sanh, dầu cho kẻ kia thế nào, ngươi cũng nhịn nhục mới phải cho. Thế là ngươi phải bị đọa xuống trần gian rồi”. Diệu Kiết Tường lạy lục thế nào cũng không đặng. Thích Ca phán rằng: “Hiện nay có vợ của Mã Nhĩ khi xưa có lên Linh Sơn tự mà cầu con. Vậy thì ta cho mi xuống đó đầu thai, chừng nào mãng đọa sẽ trở về Tây phương”. Diệu Kiết Tường khóc rằng: “Trăm lạy sư phụ nếu con xuống đó, con không đủ huyền phép mà giữ mình, ắt sao cũng nhiều người hiếp đáp”. Thích Ca đáp: “Vậy thì ta cho ngươi năm phép ngũ thông và thiên nhãn hầu đỡ thân ngươi”. Dứt lời bèn niệm chú cho các phép mầu, rồi bảo Quan Âm dắt hồn Diệu Kiết Tường xuống thế đầu thai.
HỒI THỨ NHÌ
Mới ba
tuổi, Linh Quang giết Long vương,
Nghịch một
lần, Đại đế bắt Linh Quang.
Nói qua vợ của Mã Nhĩ, từ chồng chết tới giờ, đã có thai mà sao trông hoài chưa nở nhụy. Đêm nọ đương an giấc điệp, bỗng thấy hào quang sáng rỡ. Phút chút bà sanh ra được một hài nhi, trông ra có ba con mắt, liền đặt tên là Tam nhãn Linh Quang. Dè đâu rạng ngày Linh Quang phát lớn một cách lạ lùng. Tì Khưu là anh rất vui mừng, vui đoán chắc là thù cha trả đặng.
Quả nhiên Long vương đoán biết vợ Mã Nhĩ đã sanh
thai rồi liền đem binh đến, quyết lấy ngọc báu và bắt vợ Mã Nhĩ về cung làm vợ.
Long vương cử đại binh đến nơi khiêu chiến. Tức thì Tì Khưu điểm binh ra trận;
hai đàng hỗn chiến. Tì Khưu đánh không lại Long vương, phải bại tẩu. Khi ấy
Linh Quang tuy nhỏ mà dường như biết trước, vào lạy mẹ xin theo bảo hộ anh.
Trong khi Tì Khưu bại trận, Long vương rượt theo quyết lấy ngọc. Linh Quang
thấy vậy liền ra đón đường quyết đánh, bọn thủy binh thấy Linh Quang là một đứa
con nít, nên áp nhau ra mà đánh, chẳng ngờ bị Linh Quang giết chết sạch. Long
vương nổi giận ra trận nạt lớn rằng: “Ớ thằng nhỏ kia, mi tên chi, sao mi không
trở về cho sớm, bằng cãi ta thì ắt rụng đầu”. Linh Quang cười rằng: “Ta là Mã
Linh Quang đây, ta quyết báo thù cha ta, ta giết nhà ngươi lấy thủ cấp mời vừa
lòng cho”. Dứt lời xông vào hỗn chiến. Long vương cự địch hơn hai trăm hiệp,
thấy Linh Quang mạnh mẽ lạ lùng, Long vương kinh hãi, vừa muốn rút chạy, bị
Linh Quang chém chết lấy đầu đem về dâng cho mẹ.
Ở nhà, mẹ con Tì Khưu đương lo rầu sảng sốt, bỗng
thấy Mã Linh Quang xách đầu Long Vương về trước cửa Mã Nhĩ nương nương và Tì
Khưu đồng chạy mừng rỡ. Thế thì mối cựu thù đã trả đặng. Cả ba mẹ con dọn tiệc
xướng ca, cùng ba quân ăn uống. Mã Linh Quang là tánh chất anh hùng, cho nên ở
nhà rất là buồn bực. Ngày nọ xin cùng mẹ và anh, đi ngao du các núi xem chơi
cho biết. Mã Nhĩ nương nương thương con lắm, thấy con mình muốn đi chơi cho
giải muộn, thì cho và sai gia tướng đi theo tùy tùng và kêu Linh Quang dặn
rằng: “Này con, vả chăng con còn nhỏ tuổi, con có đi chơi tới nơi nào con cũng
hãy giữ theo phép tắc, con chẳng nên ngang tàng mà miệng thế gièm pha”. Linh Quang
xin vâng lời mẹ dạy. Rồi cùng gia tướng lên ngựa băng rừng bước lội. Khi đến
một hòn núi kia, bỗng nghe tiếng chuông mõ om sòm, rất là vui vẻ. Linh Quang cứ
nhắm ngay đó mà phăn tới. Quân cản mà rằng: “Nơi ấy là chùa của Thiên quan Tử
Vi đại đế rất quan hệ, công tử không nên đến đó”. Linh Quang phân rằng: “Chỗ ấy
rất quan hệ chừng nào, ta càng muốn xem cho biết, miễn là ta trông thấy mà
thôi, chớ ta có phá táng gì hầu mấy ngươi lo sợ”. Linh Quang cứ xâm xuối đi vào
chùa. Hôm nay vì Tử Vi về chầu Ngọc Đế không có ở nhà. Nên các đệ tử thấy Linh Quang
đồng ra hỏi rằng: “Nhà ngươi ở đâu dám vào đây một cách tự do như thế, ngươi
chẳng biết chỗ nghiêm cấm này sao?” Linh Quang liền đáp: “Tôi là con thứ của Mã
Nhĩ, vì thấy nơi này là cảnh của Phật Tiên, nên muốn vào xem qua cho biết”. Các
đồng tử nghe vậy bảo rằng: “Có vậy ngài chớ vào phía sau, vì chỗ ấy là nơi cấm,
để chúng tôi dọn tiệc đãi ngài là đủ”. Linh Quang tính ưa chuyện lạ, vừa nghe
nói cấm, lại muốn trốn ra sau cho biết, có cái gì lạ mà cấm. Linh Quang lén
bước ra sau, quả nhiên thấy hai con quỉ rất là ghê gớm. Hai con quỉ ấy biết Mã
Linh Quang, nên đồng nhau kêu cầu cứu. Linh Quang nhìn không thấy cột trói chi,
sao mà gọi cầu cứu. Linh Quang hỏi: “Hai ngươi, ta đã mở cửa rồi, thì mau trốn
đi, còn bảo ta thả nỗi gì nữa?” Hai con quỉ nói rằng: “Vì có cây giáo vàng đã
ếm chúng tôi kìa, nên đi không đặng, trăm lạy ngài lấy giùm, thì chúng tôi mới
thoát nạn, ơn ấy ngàn năm đền đáp, mà ngài lại lấy được cây thương báu quí ấy
nữa”. Linh Quang nghe nói vậy bước lại nhổ cây giáo. Tức thì hai quỉ đứng dậy
lạy tạ Linh Quang trốn đi mất. Còn Linh Quang lấy giáo trao cho gia đinh đem về
nhà trước. Khi ấy thiên quan Tử Vi đại đế đã chầu Trời về đến. Trông ra đã mất
cây giáo và hai con quỉ ấy rồi. Hỏi lại đệ tử mới hay có Mã Linh Quang tới đó,
ắt là nó ăn cắp. Tử Vi liền sai Châu y lấy Cửu khúc châu ra quăng lên, sa xuống
ngay mặt Mã Linh Quang hóa ra núi Mã Nhĩ, Mã Linh Quang về đền mà nạt rằng: “Ớ
này Mã Linh Quang, mi thiệt là to gan lớn mật, dám tới đây ăn cắp cây thương
của ta, và thả hai con quỉ xuống trần phá tán lê dân. Vậy ngươi mau trả lại món
ấy cho ta, không thì mi sẽ chết bây giờ!” Mã Linh Quang cứ chối rằng không có.
Tử Vi bèn nói hết cho Linh Quang nghe mà Linh Quang cứ không chịu trả. Thiên
quan Tử Vi đại đế cả giận nói rằng: “Nếu vậy thì tại ngươi muốn chết, chớ trách
ta”. Dứt lời niệm chú phút chốc Mã Linh Quang đã chết ngay trong Cửu khúc châu
rồi. Mã Linh Quang hồn bay vơ vẩn…
Nói qua Diệu Lạc Thiên Tôn chiếm quẻ biết là Mã
Linh Quang phải nạn, bèn đằng vân bắt hồn Linh Quang bay ngay qua cung Diệm Ngũ
Thiên vương, vì vợ của Diệm Ngũ đương có thai sắp chuyển bụng. Diệu Lạc Thiên
Tôn bèn cho hồn Mã Linh Quang đầu thai làm con của Diệm Ngũ Thiên vương. Quả
nhiên Diệm Ngũ nương nương đã hạ sanh được một trai, rất là sáng suốt rực rỡ
hào quang. Hiện trong đêm ấy Diệm Ngũ nằm chiêm bao thấy lời thần tiên dạy
rằng: “Sẽ có một vị tiên hạ giáng đầu thai, ba con mắt, thì hãy đặt tên là Linh
Diệu”. Chừng thức giấc nghe a hoàn báo tin, bà sanh được một thái tử lạ thường
là có ba con mắt. Diệu Ngũ rất mừng rỡ chẳng cùng, bèn thắp hương đặng cầu Trời
Phật, đặt tên con trai mình là Linh Diệu, từ nay hết sức cưng Linh Diệu. Càng
ngày Linh Diệu lớn khôn, thì hằng có Diệu Lạc Thiên Tôn đến cung mà dạy dỗ mọi
điều theo Tiên Phật. Diệm Ngũ rất vui mừng, cầu xin Diệu Lạc cho con mình theo
thầy học đạo Diệu Lạc Thiên Tôn rất vui lòng đem Linh Diệu về cung truyền cho
mười tám món binh khí thần thông và linh đơn màu nhiệm. Ngày kia Diệu Lạc giã ý
đi du phang, kêu Kim Đao dặn dò mọi việc rằng: “Ngươi ở nhà hãy cất cây siêu
báu của ta cho kỹ, chớ hề cho ai mượn hết”. Kim Đao đồng tử vâng lời. Chừng
Diệu Lạc đi rồi ở nhà Linh Diệu năn nỉ với Kim Đao cần xin mượn cây siêu báu ấy
mà thử phép. Kim Đao không cho, Linh Diệu mới tính thế giả ra thầy là Diệu Lạc
về, bảo Kim Đao vào lấy cây siêu vàng đặng đi chầu Trời. Kim Đao tin lời đem ra
trao cho thầy, té ra là đưa cho Linh Diệu, Linh Diệu liền hóa lửa nấu cây siêu
vàng thành ra một cục vuông ba bề, bỏ vào túi áo mà cất. Kế đó Diệu Lạc hỏi về
cây siêu, làm cho Kim Đao thất vía, chỉ quyết cho Linh Diệu gạt lấy chớ không
ai. Diệu Lạc đòi Linh Diệu ra hỏi, thời Linh Diệu đền chịu tội với thầy ngay.
Diệu Lạc cười mà rằng: “Ấy là tội của con song vì lòng của con hiểu phép quá mà
sanh ra, thầy cũng vui lòng cho con hãy cất cho kỹ lưỡng đừng để mà bị mất đa
nghe”. Linh Diệu rất đỗi vui mừng, cúi đầu trăm lạy tạ ơn Diệu Lạc là thầy hiền
đức.
Hồi thứ ba
Phong, Hỏa đôi
yêu phá thế,
Ngọc Hoàng
sai Linh Diệu trừ
Nay đã đến kỳ Thượng Đế ngự bàn trời. Kim Tinh Thái
Bạch đặt gối tâu rằng: “Muôn tâu thượng đề, nay có hai yêu là Phong chi đào và
Hỏa chi đào ở động Phi Liên, xuống trung giới phá hại người, xin Thượng đế sai
người trừ trước cho nhân sinh nhờ”. Thượng Đế hỏi: “Hiện giờ khanh liệu sai ai
có thể trừ đặng?” Thái Bạch suy nghĩ rồi tâu rằng: “Hiện nay có học trò của
Phật, Linh Quang đã đầu thai kiếp thứ nhì là Linh Diệu nhờ Diệu Lạc Thiên Tôn
truyền cho phép báu, có thể trừ được đôi yêu ấy”. Ngọc Hoàng y lời, viết chỉ
sai Linh Diệu lãnh binh trời mà trừ yêu cho bá tánh. Linh Diệu vâng lệnh, dẫn
binh suy nghĩ nếu thừa dịp này ghé thăm mẹ và lấy cây thương báu hầu khi làm
khí giải mới tiện cho. Nghĩ rồi, bèn hạ ngay xuống núi, tuốt vào hầu mẹ. Mã Nhĩ
nương nương trông thấy ôm mà khóc òa, và hỏi han mọi nỗi! Linh Diệu quì lạy mẹ,
mà khóc ròng, rồi đem các việc bị giết và đầu thai lại cho mẹ và anh nghe. Mã
Nhĩ phân rằng: “Vậy thì con từ rày chớ đi xa nữa”. Linh Diệu tâu rằng: “Bẩm mẹ,
hiện nay con đã vâng lệnh Ngọc Hoàng, hạ giải trừ đôi yêu nghiệt kia, con ở nhà
chẳng tiện đó mẹ à. Cúi xin mẹ vui lòng cho. Và con cầu xin anh có còn giữ cây
thương ngay ấy, hầu cho em mượn cầm tay”. Mã Nhĩ nghe xong cũng bằng lòng. Còn
Tì Khưu sai quân vác cây thương ra cho em. Linh Diệu liền bái mẹ mà rằng: “Con
cúi đầu xin thưa cùng mẹ, nay con vì việc trời, con phải lo cho tròn bổn phận,
nếu ngày nào con diệt trừ loài phá hại kia xong, con sẽ về đây hầu mẹ”. Dứt lời
từ biệt mà đi, ba người đều khỏe. Linh Diệu dẫn ba ngàn binh nhằm trần gia chỉ
dặm, đến nơi xuất binh khiêu chiến. Quân vào báo cho Phong và Hỏa hay. Phong
Hỏa hai yêu nghe vậy nổi giận dẫn yêu đồng hỗn chiến. Hai yêu thấy Linh Diệu
thì chẳng thèm hỏi nói chi cả, chỉ lấy báu của mình là Phong luân và Hỏa luân
liệng lên. Lửa cháy mịt trời, gió thổi đá bay làm cho binh trời cuốn sạch. Linh
Diệu cười lớn rằng: “Chúng bây là loài yêu quái, đốt ta sao cháy mà mong làm
dữ”. Liền lấy Tam giác kim chuyên liệng lên trời. Cả hai yêu kinh hãi chạy dài
vào động đóng cửa ẩn thân lánh nạn. Làm cho Linh Diệu phải bơ vơ không biết kế
chi bắt đặng. Liền đó suy ra một kế, là giả đệ tử của Tây Vương Mẫu, dùng hỏa
đơn hóa ra hai trái đào, hầu gạt hai gã nầy mới đặng cho. Linh Diệu hóa ra Ngọc
Nữ, tay cầm hai trái đào bước vào cửa động. Bầy yêu áp hỏi: “Cô nương người ở
đâu mà tới đây như vậy?” Linh Diệu giả đáp rằng: “Ta là Ngọc Nữ đến đây xem
đánh giặc chơi vậy mà”. Bầy yêu nghe mùi đào thơm, đồng cùng nhau xin hai trái
đào của Linh diệu, Linh Diệu phân rằng: “Đào này chúng bay nào hưởng được, vì
nó quí lắm, ăn vào thì hóa ra hình nhẹ tựa bông, sức mạnh vô chúng nói đặng, chúng
bây nào được phép hưởng mà mong”. Bầy yêu nghe vậy chạy vào báo tin cho Phong
và Hỏa chủ mình hay có người đem của báu. Hai yêu nghe rất mừng thầm sai bộ hạ
mời vào. Linh Diệu được mới bèn nhẹ gót sen bước tới cúi đầu chào… Ở ngoài cửa
động đóng chặt lại liền.
Hai yêu tưởng mình đắc kế, bèn nạt lớn rằng:
“Ngươi mau dâng hai trái đào cho hai ta; bằng cãi, khó nổi ra khởi chốn này cho
đặng”. Ngọc Nữ lấy làm run sợ, kế bày yêu áp lại giựt hai trái đào dâng cho hai
chủ mình, Phong và Hỏa được đào rất thèm ăn, bỏ vào miệng, ai ngờ nóng như lửa
đốt, song đào đã chạy tuốt vào bụng. Linh Diệu hiện nguyên hình nạt lớn rằng:
“Ơ nầy hai yêu, mi thấy phép biến hóa của ta chưa, nay mi đã nuốt hỏa đơn vào
bụng rồi, mau đầu thì khá, bằng không thì mạng ra tro bây giờ!” Hai yêu tẩu
thoát nhưng bị cháy cả gan ruột, bèn ngã lăn cầu xin tha tội.
Liền đó Linh Diệu thâu Phong luân và Hỏa luân
cưỡi đi như bay mà dẫn hai yêu về nạp. Ngọc Hoàng thượng đế rất đỗi vui mừng,
đầy hai yêu sa địa ngục, phong cho Linh Diệu làm Mã nguyên soái. Như thế mà có
người lại chẳng vừa lòng. Đặng Hóa tâu rằng: “Tâu Ngọc Đế! Như Linh Diệu có
công nhỏ mọn mà được chức Nguyên soái, vậy tôi xin đấu sức cùng người”. Ngọc
Hoàng cười rồi y lời cho thí võ với nhau, coi ai cao ai thấp cho vừa lòng nhau.
Hai người ra sân đấu võ với nhau. Ai ngờ Linh
Diệu kỳ tài, bắt đặng Đặng Hóa dở hỏng chân mà để xuống. Làm cho Đặng Hóa hết
sức thẹn thùa giữa đô hội. Thượng Đế ban khen Linh Diệu hết sức, đoạn bãi chầu.
Cách ít ngày sau, đã tới kỳ phân long, gió mưa
thế giải cho kẻ nhà nông làm ruộng. Các vị chân nhân tâu cùng Ngọc Hoàng thượng
đế cho Nguyên soái Linh Diệu làm chức Minh Thụ mới có đủ tinh thần hùng tráng
mà cai trị các vị rồng nhỏ ở biển mới lên, tánh hay biếng nhác. Ngọc Hoàng y
tấu, đòi Linh Diệu nguyên soái đến mà phú thác việc ấy. Linh Diệu nguyên soái
lãnh chức Minh phụ mà coi phân long bốn phương trời đất.
Hồi thứ tư
Hội Phân –
long, Linh – Diệu công bình,
Giữa tiệc
rượu, Thiết – Đầu bị đuổi.
Minh phụ là Linh Diệu đã ra lệnh mời các vị Long
vương chầu yến tiệc hội phân long. Chỉ có Ngao Quảng trong lòng hết sức lo
ngại, vì mình đã già yếu, không sức hô phong hoàn vũ như xưa được. Ngao Quảng đương
rầu lo, bỗng có con trai là Thiết Đẩu thái tử bước tới quì tâu rằng: “Muôn tâu
vương phụ, con xem khí sắc vương phụ tỏ ra buồn bực, chắc là phụ vương đã già
yếu rồi, e sợ tới kỳ phân long này, phụ vương không đủ sức đảm đương trách
nhiểm của mình chăng. Vậy con xin đi thế cho”. Ngao Quảng rất mừng, vùng nghĩ
lại giật mình mà rằng: “Con đi thì được, trong con có tánh trà rượu say sưa, e
cho mắc phải tỗi lỗi chẳng vừa mà chớ”. Thiết Đẩu thề rằng: “Con ra làm việc
công, con xin bỏ hẳn rượu trà. Nếu con còn thế ấy, con xin không toàn tánh mạng
cho rồi đứa con bất hiếu”. Ngao Quảng nghe con thề chắc chắn liền cho đi thế.
Thiết Đẩu sắm sửa, tới ngày đằng vân giá võ bay bổng trên thiên môn mà dự tiệc.
Minh phụ Linh Diệu mời các Long vương vào nhập
tiệc, đoạn Linh Diệu đọc luật cấm rõ ràng cho các vị nghe, và khuyên bảo các vị
hãy siêng năng cần mẫn, lo mưa rưới cho thế gian nhờ, đừng để nên hạ mà phải bị
phạt”. Khi rượu rót bọt vung, Thiết Đầu thèm thòi vô hạn, vì các vị lớn uống
trước, tới phiên anh chàng nhỏ ở sau, bèn bưng bầu mà đổ vào miệng, trong giây
lát đã say mèm. Lại mở lời ô rê rằng: “Ông Minh phụ không công bằng rồi. Theo
lẽ thì mời tôi uống trước, vì cha tôi là người lớn hơn hết, tôi đi thế cho cha
tôi, thì mời tôi uống trước mới phải chứ. Các vị đều khuyên không nên nói
nhiều. Thiết Đầu nói mãi. Minh phụ Linh Diệu nổi nóng mà rằng: “Nhà ngươi rất
vô lễ, cha ngươi là người lớn thì ngồi trên, còn ngươi thì phải ngồi dưới, cớ
sao mi dám vô lễ như thế? Vậy thì ngươi phạm luật quá đàng, ta định lột chức
ngươi”. Nói dứt lời nắm cổ Thiết Đầu quăng xuống biển thế gian. Thiết Đầu bị té
xuống uống nước hồi lâu giã rượu, giật mình nghĩ lại rất thẹn thùa, không dám
trở về cung, sợ cha hành tội. Liền hóa ra một con cá rất lớn lạ lùng, lội theo
dòng nước. Dè đâu ỷ sức mạnh lội trở lên bãi biển mặc cạn, chúng dân trong thấy
một con cá quá lớn, kéo khiêng gì cũng không nổi, bèn cùng nhau áp lấy dao lóc
thịt. Cá ta bị đau quá vùng vẫy dữ dội, tuốt được xuống biển mà bôn tẩu. Về tới
cung Thủy tinh, hiện nên hình người đầy những máu me ghê gớm. Thiết Đầu vào lạy
cha mà phán qua các tội trọng: “Vì con về sợ cha rầy, nên hóa ra cá lội chơi,
ai ngờ mắc cạn, bị dân áp nhau lóc thịt, nên nay con đành phải chết, xin cha
báo cứu cho, hồn con rất vừa dạ!”. Dứt lời liền chết. Ngao Quảng ôm con mà
khóc, rồi an táng. Liền đem binh tôm, cá, dâng nước báo cừu, dân nơi đó rất là nguy
khốn; nước ngập cho đến miếu môn của mấy bà đều trôi tuốt hết. Mấy bà Hậu Thổ
mấy ông Thổ Thần chạy về báo tin cho Nam Tào hay. Nam Tào tuốt về tâu Thượng Đế.
Ngọc Hoàng sai Thổ Đức xuống cứu dân, Thổ Đức xuống đánh cho một trận. Long
vương bại tẩu, rồi làm phép cho nước sụt xuống tức thì. Mấy bà Hậu Thổ rất
mừng, mời Thổ Đức vào miếu mà nói rằng: “Nhờ ơn ngài cứu cấp. Nhưng có điềm lạ
là thưở giờ cây Quỳnh không có bông, nay sao bị ngập vừa rồi, lại trổ bông thơm
bát ngát, chúng tôi muốn dâng về cho Ngọc Đế”. Thổ Đức thấy Quỳnh hoa rất lạ,
bèn lãnh dâng đến Ngọc Hoàng. Thổ Đức đằng vân về tới Cửu trùng, vào tâu việc
nước lụt đã hết rồi, nhân dân lạc nghiệp. Tức thì Thổ Đức dâng Quỳnh hoa lên
cho Ngọc Đế. Ngọc Hoàng xem thật là hoa quí, ban khen Hậu Thổ nương nương. Rồi
bảo rằng: “Theo ý ta thì hoa này quí lắm. Để ta phú cho Kim Thương làm chủ
cuộc, mời hết các vị công thần của trẫm, hễ ai được công lao lớn thì giắt hoa
trên đầu và uống rượu, còn ai vô công thì không đặng hưởng. Thái tử Kim Thương
y lênh mở hội Quỳnh hoa mời đủ các vị Tiên Phật. Kim thương đưa nhánh hoa, ai
ai cũng từ chối, sợ mình không đủ công lao mà giắt bông quí ấy, cho đến Linh
Diệu cũng từ luôn. Thái tử Kim Thương thấy thế lấy giắt trên đầu mình và uống
rượu nữa.
Linh Diệu thấy thế lấy làm căm tức, liền hỏi
rằng: “Thái tử không công cán chi, sao dám mạng lệnh mà giắt hoa và uống rượu
như vậy?” Thái tử nói: “Vì ai nấy không chịu hết, nên ta biết ai có công mà
thưởng; vì vậy ta buộc lòng giắt hoa, sao ngươi dám bắt lỗi ta?” Linh Diệu nói:
“Tôi vì các vị lớn, nên khiêm nhường, chứ tôi là người có đại công, bắt hai con
yêu kia đó”. Thái tử cãi cọ một hồi, Linh Diệu bèn giựt hoa mà giắt trên đầu,
rồi lại giả say đánh Thái tử và la lớn rằng: “Ta là Huê Quang đại vương”. Bá
quan hoảng sợ chạy hết. Còn Linh Diệu giả say nằm ngay không dậy. Thái tử bị
đánh chạy tuốt vào tâu cùng Ngọc Đế: “Muôn tâu phụ vương, vì tôi vâng lời phụ
vương mở hội Quỳnh hoa, ai ngờ Linh Diệu ỷ mình ngang ngược đánh con, xưng là
Huê Quang đại vương xin cha trị tội kẻ thất phu!” Ngọc Hoàng liền cho đòi Huê
Quang vào điện phán rằng: “Sao ngươi dám cả gan mà đánh con ta như thế?”. Huê
Quang chối, và xin đòi các quan làm chứng. Ngọc Đế đòi đủ hết. Các quan vì sợ
chuyện có mình mà để cho đánh lộn, bèn hè nhau cho là không có đánh, chỉ vì Huê
Quang say rượu nói nặng lời mà thôi. Ngọc Hoàng lên án lột chức Nguyên soái của
Linh Diệu và bảo theo hầu hạ Đặng Hóa nơi cung mặt nhựt. Huê Quang đành cam
chịu, lãnh chức du thân, sang qua cung nhựt, chờ chừng nào mãn tội sẽ phục hồi
ngôi cũ.
Khi Huê Quang đến hầu Đặng Hóa, Đặng Hóa rất mừng
thầm rằng, mình sẽ rửa hận ngày xưa đấu võ thất bại, bèn cười mà rằng: “Huê
Quang, sao ngươi tới làm việc cùng ta, mi không quì ngay xuống?” Huê Quang thất
thế phải chịu quì liền. Đặng Hóa liền ra lệnh rằng: “Vậy thì mỗi ngày ngươi hãy
chạy theo mặt nhựt mà gìn giữ, nếu bê trễ sẽ bị bốn chục roi da.” Huê Quang
vâng lệnh, song biết cho kẻ tiểu nhân thù mình, nghĩ buồn mà rằng: “Cha chả,
bây giờ mỗi ngày chạy theo mặt nhựt thì ai mà chạy cho nổi, bằng không thì bị
đòn. Tốt hơn là ta tính mưu này ắt xong. Thế thì ta hóa ra một hình giả chạy
theo, còn ta nghỉ ngơi cho khỏe, coi chúng nó làm chi ta đặng không?”. Đặng Hóa
tính kế này nghĩ mưu khác quyết đánh Linh Diệu cho được mới nghe. Linh Diệu
thấy thế khó ở cho yên đặng, bèn viết trong cuốn sổ mấy hàng chữ như vầy: “Thời
vận vô đoan, anh hùng thường xấu phước. Gặp phải tay cừu không nhịn đặng, từ
đây Huê Quang chịu tiếng phản thiên cung”. Viết xong bèn bay mất, Mã Nhựt Kê xách
sổ về cho Đặng Hóa xem. Đặng Hóa đem binh quyết bắt. Ai ngờ Đặng Hóa đánh chẳng
lại Huê Quang, đành trở về báo cáo cùng Ngọc Hoàng Thượng Đế.
(Hết tập 1 - Xem tập 2)
Tập thứ 2
- Nam
du Huê Quang
Hồi thứ
năm
Huê Quang
phạm tội đọa đày
Đặng Hóa
cựu thù cố quyết
Còn Huê Quang xuống thế gian, bỗng thấy một hòn
núi rất là xinh đẹp, tuốt vào thấy có động tiên, liền cầu xin vào tu niệm. Đây
là động của Hỏa diêm vương Quang hiệu là Khuyến Thiện đại sư. Ngài đang ngồi
trong động, vùng thấy Huê Quang bước vào cung bái. Liền hỏi rằng: “Nguyên soái
là một vị tướng trời, nay vì sao lạc loài đấy đây, xin cho bần đạo rõ?” Huê
Quang bèn đem các điều của mình bị tội mà khai thật hết, và cầu xin ở đây tu
luyện. Khuyến Thiện đại sư rằng: “Nếu ngươi bỏ tính nóng nảy, thà lão mới dám
nhận làm đệ tử, bằng chẳng, lão nào dám nuôi người trong động!” Huê Quang thề
xin qui y ăn năn hối hận. Khuyến Thiện rất vừa lòng, cho Huê Quang làm đệ tử
từ từ đây…
Ngày kia dưới Đông Hải, bỗng nhiên chiếu sáng lòa
nước lên. Ấy là do Ngao Quảng ăn lễ, nhả ngọc minh châu chiếu sáng như thế. Huê
Quang ở trên núi trông thấy điềm lạ, bèn trợn con mắt ở giữa ra mà trông coi
điều chi cho biết. Huê Quang thấy rõ là hột minh châu để giữa tòa Thủy tinh.
Huê Quang tuốt xuống mé biển, thấy nội đền đều say rượu hết. Chàng hóa hình ra
một con tôm lội ra ăn cắp hột minh châu ấy ngay, rồi giấu không cho thầy hay,
mà phải bị tội nặng.
Khi Ngao Quảng thức dậy thấy mất minh châu, kinh
hồn lạc vía, sai quân tìm khắp nơi không có. Ngao Quảng định qua Nam
hải hỏi thăm Quan Âm, may ra có thấu chăng! Liền qua đến nơi, đem hết sức oan
ức, cầu Phật Quan Âm chỉ giùm làm phước. Quan Âm xem rồi cười mà rằng: “Hiện
nay Huê Quang đã lấy đem về giấu ở núi Triều Chơn. Người hãy về đó mà kiếm”. Ngao
Quảng cả mừng từ tạ về điểm binh tôm cá, áp vây núi Triều Chơn, kêu Huê Quang
bảo trả báu vật. Khuyến Thiện đại sư nghe thế, biết là Huê Quang ăn cắp minh
châu, bèn đòi Huê Quang bảo trả lại cho Ngao Quảng. Huê Quang cầu xin ra trận
một lần mới hay. Dứt lời Huê Quang cầm thương xông ra. Ngao Quảng chỉ ngay mà
nói rằng: “Ngươi ăn cắp ngọc của ta, có Quan Âm làm chứng, ngươi mau trả cho
ta”. Huê Quang không chịu trả. Hai bên ẩu đả với nhau, Ngao Quảng bị Huê Quang
đánh bại tẩu chạy về cung Thủy tinh, lấy làm căm tức bồi hồi. Còn Huê Quang về
tâu cho thầy hay, vì Ngao Quảng ỷ mình, nên tôi đánh cho một trận chạy nhào
xuống biển. Khuyến Thiện làm thinh, Kế nói với Huê Quang rằng: “Nay thầy cần về
chầu Thượng đế, đệ tử ở nhà ít bữa ta về”. Bỗng nhiên Huê Quang khóc rống lên.
Khuyến Thiện hỏi rằng: “Vì cớ sao nhà ngươi khóc?” Huê Quang bạch rằng: “Con từ
bị Đặng Hóa ác nghiệt, con trốn xuống trần gian đến nay. Con ngậm ngùi nhớ cha
thương mẹ, không biết làm sao thăm viếng!” Khuyến Thiện nghe vậy rất cảm động,
suy nghĩ nói rằng: “Theo như lời ngươi nói, thì ra rất cảm thương cho đó có
lòng hiếu thảo. Ta có thể cho ngươi theo về đến thiên tào mà thăm cha mẹ đặng,
song ta e cho ngươi sanh chuyện chẳng lành.” Huê Quang lạy mà khóc rằng: “Con
trăm lạy thầy, con nay đã bỏ hẳn những tánh nóng nảy, con đã bị mất chức nguyên
soái một lần, con rất ăn năn, nếu thầy giúp cho con về thăm cha mẹ, thì con
quyết thề, không khi nào con dám sanh chuyện chi tất cả.” Khuyến Thiện căm xót
mà rằng: “Nếu con được vậy, thì thầy cho đi, đây thầy trao cho con xâu chuỗi
báu nầy, con đeo vào cổ đi không ai trông thấy. Khi con thăm cha mẹ rồi, mau
mau về chùa, chớ nên ở lâu sanh sự đa nghe”. Huê Quang lãnh chuỗi, cúi đầu bái
lạy xin vâng lời thầy dạy.
Khi Huê Quang về tới thiên tào và cung Đẩu tư mà
không ai thấy hết. Chừng cởi chuỗi ra, chàng đã quì trước mặt cha mẹ, mà khóc kể
việc xa cách bấy lâu. Diệm Ngũ thiên vương cùng nương nương bỗng nhiên trông
thấy con quì dưới gối, vùng la lớn rằng: “Con! Con! Bây lâu con bỏ cha mẹ mà đi
đâu mất tới bây gờ vậy hở!” Huê Quang thưa rằng: “Từ ngày con bị Đặng Hóa làm
ức, con mới làm phản trốn xuống thế gian, may nhờ con là Khuyến Thiện đại sư
cứu con. Nay thầy con cho xâu chuỗi này, ẩn hình về thăm cha mẹ đây, thậy là ơn
quá trọng”. Diệm Ngũ khóc mà rằng: “Con ơi, từ con làm phản Đặng Hóa, thì Đặng
Hóa về tâu với Ngọc Hoàng rằng: Con phản nhựt cung, con xuống trần thế xưng
vương, và chờ ngày đem binh về trời mà giết thái tử Kim Thương, cho nên Ngọc
Hoàng đã sai đích thân các vị thần thông đem binh xuống bắt con mà giết. Vậy
thì rạng ngày con hãy trốn đi mà lánh nạn”. Đêm ấy Huê Quang nằm không an giấc.
Nghĩ ra một kế là giả quân Trời vào đầu quân Thái tử, hầu thích khách mới yên
muôn việc.
Tính vậy rạng ngày liền bái biệt cha mẹ xong. Ra
khỏi cung tức thì biến ra một người cao lớn dị thường, tuốt vào cung Thái tử.
Thái tử Kim Thương trông thấy Huê Quang giả người cao lớn thì hỏi rằng: “Ngươi
ở đâu, đến đây có chuyện chi?” Huê Quang tâu rằng: “Muôn tâu Thái tử, tôi có
nghe lệnh Ngọc Hoàng hội binh Trời đặng nã tróc Huê Quang nơi trần thế. Nên tôi
vào xin đầu quân, hầu lập chút công danh”. Thái tử hỏi: “Ngươi tên họ chi?”.
Vừa lúc ấy Huê Quang đã kề gần. Vùng hiện nguyên hình đâm đại Thái tử. Kinh Thương
kinh hãi chạy nhào vào núp tại kiến ta bà. Huê Quang rượt theo mà kiếm không
đặng, xẩy thấy hai con qủi đương bị xiềng. Huê Quang nói: “Hai ngươi có thấy Thái
tử chạy đâu chăng?” Hai quỉ nói: “Ngài hãy mở xiềng cho hai tôi, thì chúng tôi
sẽ chỉ Thái tử cho”. Huê Quang y lời, mở xiềng xong. Hai quỉ chỉ Thái tử đang
núp tại kiến kia, (hai quỉ xuống trung giới liền trong lúc đó). Còn Huê Quang
lấy kim chuyên liệng bể kiết rượt Thái tử. Kim Thương lúc này liệu thế chạy
không khỏi, bèn há miệng la vang trời mà kêu cứu!
Bốn phía các binh trời tướng hội, trùng trùng áp
tới mà phò hộ Thái tử, đánh với Huê Quang. Huê Quang một mình cự sao lại thiên
binh. Chàng bèn hóa lửa đốt đền đài rồi thừa cơ độn hỏa mà về thế gian. Lúc này
Huê Quang suy nghĩ, không dám về thầy, vì tại nơi mình lỗi đạo, ắt thầy không
dung. Nghĩ thế bèn ngao du kiếm chỗ đỡ nương. Chàng đi tới một cái núi rất là
xinh đẹp, bông hoa đua nở, mùi thơm nhẹ mũi. Chàng hỏi thăm thổ địa mới hay là
núi Ly lâu, có hai con quỉ là: Thuận Phong Nhĩ và Thiên Lý Nhãn. Một người thì
ngó xa muôn dặm đều ngó thấy, một người ai nói xa mấy ngàn dặm cũng nghe. Bấy
lâu khuấy rối thiên hạ nước nầy vô số kể. Huê Quang nghe vậy rất nóng nẩy, bèn
tuốt vào quyết cho gặp mặt.
Nói qua hai yêu ấy, một người đã nghe rõ, một
người đã thấy rõ Huê Quang, mong vào bắt mình, thì cả hai hết sức lo tính,
quyết bắt Huê Quang cho được mà ăn thịt thì quí báu lắm, chứ nếu chường mặt ắt
không thể nào đánh cho lại Huê Quang. Thiên Lý Nhãn bày mưu rằng: “Bây giờ hai
ta hóa ra làm hòn núi sát bên đường vô, chờ khi Huê Quang đi tới, ép lại mà ăn
thịt mới tiện cho”. Anh em suy ra kế rất mừng, hóa thành ra hai hòn núi. Khi
Huê Quang vào gần tới động yêu, dòm không thấy ai hết. Chàng lấy làm hồ nghi,
sợ cho loài yêu quái nó có phép ẩn thân chăng. Chàng bèn lấy tay vạch con mắt
giữa mà trông coi… Quả thấy hai con quỉ hiện ra hai hòn non nhỏ, quyết chí ép
bắt mình mà ăn. Chàng cười thầm rằng: “Ta thừa cơ giả không biết đi gần tới đó,
hóa lửa đốt cho nó chết cho hết phá thiên hạ nữa”. Lần lần đến nơi, miệng đọc
thần chú, tức thì lửa cháy bừng lên nơi hai hòn non ấy. Hai con quỉ kinh hồn
tức thì hiện nguyên hình, nhưng chạy đâu không khỏi, túng thế áp nhanh đánh
đại. Huê Quang vừa đánh và suy nghĩ: “Nếu mình có hóa phép mà giết chắc là một
đứa mà thôi, chi bằng lựa kế bắt cho được hai đứa này mới dứt hậu hoạn cho”.
Nghĩ vậy bèn giả thua bỏ chạy. Hai quỉ tưởng thiệt lật đật rượt theo. Huê Quang
chạy một đỗi bèn dừng bước lại cười nói với hai yêu rằng: “Chúng bây có sức gì
mà cự cho lại ta, song ta chẳng muốn đấu chiến
mà làm chi, vậy ta giao với hai ngươi như vậy: Nếu hai ngươi cầm nổi cây
thương của ta đây, ta chịu theo làm bộ hạ của hai người liền”. Hai quỉ cười lớn
mà rằng: “Nhà ngươi đã đánh không lại hai ta, lại còn nói lối, cây thương của
ngươi ta nắm một tay cũng nổi, mà ngươi có y lời vậy hay không?” Huê Quang đáp:
“Ta không biết nói sai đâu mà ngươi sợ”. Hai quỉ rất bằng lòng. Huê Quang bèn
cậm cây thương xuống đất. Ban đầu Thiên Lý Nhãn ỷ sức bước lại nhổ lên, hè huội
thế nào cũng nhổ không nổi, tới phiên Thuận Phong Nhĩ nhổ cũng chẳng lên. Huê
Quang cười rằng: “Vậy thì để ta nhổ lên để nằm cho hai ngươi đỡ”. Chàng bước
lại nhổ coi nhẹ bỗng. Chàng để nằm, bằng một đầu người, dở không nổi, áp lại cả
hai. Ai ngờ bị Huê Quang niệm chú, cả hai đều dính vào cây thương hết, khác nào
lấy giây mà trói, vì cây thương ấy kị yêu. Hai yêu biết mình đã mắc mưu rồi,
đồng nhau kêu la tha thiết, cầu cứu vang tai!! Huê Quang bèn nói rằng: “Hai
ngươi tội ác vô ngần, ta giết hai ngươi đế cứu nạn cho nhân dân, thì có thế nào
ta tha đặng. Song có một đều là hai ngươi nếu biết ăn năn cả tà qui chánh, thì
ta dung dưỡng cho”. Hai yêu nghe vậy, muôn phận thệ chịu y lời dạy bảo, xin làm
bộ hạ đến mãn kiếp mới vừa. Huê Quang nói: “Quả thiệt hai ngươi theo ta, thì ta
tha cho”. Hai yêu dạ! dạ! Huê Quang bèn lấy hỏa đơn bảo hai yêu: “Hả miệng ra
ta bỏ thuốc vào, thì thấy hai tay ra mới được. Nhưng mà ta dạy một điều. Nếu
hai ngươi trở lòng làm phản ta, thì hai hột hỏa đơn sẽ cháy trong bụng hai
ngươi chết liền đa nghe”. Hai yêu nuốt hỏa đơn vào, tức thì lấy tay ra đặng,
hai yêu bàn với nhau rằng: “Chúng ta giả chạy trốn thử coi, hỏa đơn kia có
thiệt linh nghiệm chăng?” Tức thì co chân chạy. Huê Quang niệm chú trong ruột
hai người lửa cháy. Hai yêu hoảng vía lạy bái liên miên mà rằng: “Chúng tôi
muốn thử phép của lệnh đại vương. Vậy xin đại vương dung cho chúng tôi khỏi chết.
Quyết thề làm tôi mọi từ đây”. Huê Quang thâu hỏa lại. Hai người khỏi chết bái
lạy xin hàng đầu! Huê Quang hỏi rằng: “Hiện nay ta có việc rắc rối lắm, không
thể nào nói cho hai ngươi nghe đặng ta muốn ẩn dật nơi nầy có đặng cùng chăng
vậy!” Hai yêu đồng thưa rằng: “Bẩm đại vương được lắm. Vì ở đây mỗi năm vua nước
này phải đem con trai, con gái và lễ vật cúng tế cho hai tôi luôn luôn. Nếu
mình muốn dùng vặt gì cũng được cả”. Huê Quang rằng: “Hai ngươi thật là tội ác
dẫy đầy, từ đây hãy ăn năn hối ngộ. Chớ bảo vua dâng thịt người nữa, ý ta muốn,
tốt hơn là bảo vua phải lập miểu mà thờ ta cùng hai ngươi, mà cần phải lên cốt
mới đặng”. Hai yêu thưa rằng: “Bẩm đại vương, nếu đại vương muốn thể nào thì
cũng đặng hết. Vậy thì để tối nay, hai tôi cùng đại vương đến đền vua cho vua
nằm thấy chiêm bao, dạy y như lời đại vương nói đó”. Trong đêm ấy Huê Quang đi
cùng Thiên Lý Nhãn đến vung vua Thiên Điền hóa phép cho vui nằm chiêm bao trông
thấy tợ mặt ba người, rồi bảo lập miếu mà thờ, và lên cốt cho hẳn hòi, thì sẽ
phù hộ quốc dân lạc nghiệp, mùa màng êm thuận.
Hồi thứ
sáu
Vua lập
miếu thờ Huê Quang
Hỏa Phiên
thù bắt Công chúa
Qua ngày sau, vua lâm triều bái yết xong, vua
liền đem điềm chiêm bao rõ ràng như vậy mà bày tỏ cho các quan nghe, các quan
liệu lượng thế nào, cho chúng dân nhờ đức?” Các quan nghe rất đỗi mừng, đồng
nhau tâu rằng: “Nếu vậy thì Huê Quang hiện xuống, ắt là nước nhà hữu phước, cho
nên hai vị ác thần kia phục tùng, không cho cúng nạp trai gái như xưa nữa. Vậy
thì xin bệ hạ lập miếu thờ Huê Quang vương cùng hai vị thần ấy cho xứng đáng”.
Vua y lời hỏi: “Vậy thì các quan tính phải lập miếu ấy nơi nào cho được đẹp đẽ
xứng đáng?” Các quan bàn luận tâu: “Chỉ có cái miếu của Hỏa Phiên tướng, hiện
nay đã hư rồi, xin bệ hạ cất ngay chỗ ấy cho xinh đẹp mà thờ”. Vua liền hạ cho
lập miếu, hai tháng đã thành. Rồi mướn thợ lên cốt Huê Quang và hai vị thần kia
y theo lời mà thờ. Ngày khánh thành có đức vua và các quan tề tựu đủ hết. Từ
nay Huê Quang đã làm xong việc thiện, bèn bảo hai vị thần hầu rằng: “Hai ngươi
phải ở miếu này mà phò hộ chúng dân, để ta ngao du giải muộn, cùng gặp đều thất
đức của thế gian thì ta sữa cải mà làm phước”. Hai vị hầu vâng lời chỉ dạy. Huê
Quang liền đi. Nói qua Công chúa tại trào, nghe miếu Thiên Vương linh lắm nên
cầu xin cùng vua, lên đó trước xem qua sau là cầu phước. Vua sai thế nữ theo
hầu. Ngờ đâu vừa khi Công chúa đi nửa đường, bỗng một luồng gió thổi qua, có
một vị thần đã xớt mất Công chúa. Làm cho kẻ hầu kinh hãi chạy về trào báo tin
dữ dội ấy. Vua nghe sảng sốt cùng quần thần bàn luận, có lý nào Huê Quang bắt
công chúa? Mà Huê Quang không bắt thì ai bắt. Vua định chắc Huê Quang bắt, nên
truyền lệnh đốt miếu cho rồi. Các quan
tâu xin rằng: “Có lẽ không phải Huê Quang bắt. Vì Huê Quang đã bảo không cho
cúng tế bằng người nữa, nay còn bắt công chúa một cách lạ lùng như thế, chắc là
mấy vị khác chăng? Xin bệ hạ viết chỉ cáo rõ cho Huê Quang thần hay, họa là
người có rõ mà cứu chăng?” Vua nghe có lý bằng lòng ưng chịu, viết chỉ lên miếu
cầu vái và đốt chỉ ngay. Hai vị Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ, trông rõ việc
mất công chúa như thế, toán quẻ biết rõ Hỏa Phiên tướng bắt, nhưng mà hai người
không đủ sức đánh lại Hỏa Phiên tướng, mới tính làm sao đặng cứu công chúa cho
đặng. Hai người chỉ rầu lo van vái Huê Quang ở đâu hay về mà thôi.
Nói qua Hỏa Phiên tướng là vị thần ở chỗ cũ, bị
vua phá miếu, đề cất thờ Huê Quang, thì hết sức tức giận, nhưng sợ Huê Quang,
không dám làm gì. Nay Huê Quang đi khỏi, thừa khi công chúa lên miếu, hóa gió
bắt công chúa làm vợ mà báo cừu, sau làm cho Huê Quang phải mang tiếng. Khi Hỏa
Phiên bắt công chúa về động, trông thấy rất là lịch sự, hết sức nài hoa ép
liễu. Công chúa không chịu, Hỏa Phiên nói rằng: “Nếu công nương không ưng làm
vợ chồng cùng ta, thì ta sẽ giết mà ăn thịt ngay, ta như vầy không xứng đáng
sao?”. Công chúa nghĩ vì mình đã vào vòng lưới sắt, chi bằng giả ý, họa là nhớ
ơn đức Phật Trời mình qua tai nạn này chăng! Bèn nói với Hỏa Phiên rằng: “Thiếp
nay không còn trốn tránh ngõ nào cho khỏi người đặng. Nghĩ vì thiếp là người có
danh giá trong thiên hạ, trước muốn có một người chồng cho đặng xứng đáng, thì
cũng phải đủ lễ. Vậy xin người đợi trong đôi ngày cho thiếp được định tâm, hầu
sắp sửa tiệc cho đàng hoàng mà làm lễ, rồi khi ấy mặc tình vầy duyên vợ chồng”.
Hỏa Phiên nghe công chúa nói, rất là hữu lý, nên
chịu ngay lẽ ấy. Chờ đôi ngày lo tiệc sẽ hay, chứ công chúa chạy đất nào cho
khỏi mà sợ. Liền giao công chúa cho bọn yêu bộ hạ giữ gìn.
Nói về hai vị thần là Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong
Nhĩ từ bữa vua đem chỉ lên cầu, hai người lo mưu thiết kế thể nào cũng chẳng
đặng, chỉ ngày đêm van vái cho Huê Quang về mà thôi. Cách hai bữa sau, bỗng
nhiên Huê Quang về đến miếu, hai vị thần mừng vô hạn! Bèn đem hết chuyện Hỏa
Phiên tướng bắt công chúa sao sao đều đọc rõ cho Huê Quang nghe. Huê Quang nghe
dứt, nổi giận lôi đình, bèn tìm tới động Hỏa Phiên tướng, đến nơi dò xem, mở
thiên nhãn ra, trông thấy Công chúa đương bị yêu bắt, bèn biến hòa một con
muỗi, chui vào hiện rõ Huê Quang cho công chúa thấy. Công chúa rất đỗi mừng,
quì lạy khóc cầu xin Huê Quang cứu mạng cho. Huê Quang phân rõ mọi điều, quyết
vào đây mà cứu công nương và giết cho được kẻ bất lương. Tức thì Huê Quang lấy
chuỗi ẩn hình trao cho Công chúa rồi mở cửa đem Công chúa ra khỏi động, luồng
mây bay về tới đền vua hạ xuống cho công chúa đi vào. Ôi! Lúc bấy giờ vua và
hoàng hậu mừng con, biết sao mà kể cho cùng đặng. Công chúa mới đem chuyện Hỏa
Phiên tướng thù vì cái miếu cũ Huê Quang chiếm, cho nên mới sanh sự ra như thế
ấy. Vua nghe mỗi điều, hết sức kiên vì Thiên vương.
Còn Huê Quang lúc đưa công chúa về cung rồi, trở
lại động của Hỏa Phiên, hóa ra con muỗi bay vào chỗ nhốt công chúa rồi hóa ra
công chúa y hệt vậy, dùng hỏa đơn thành một trái táo để trên bàn. Vừa lúc Hỏa
Phiên tướng bước đến chỗ công chúa ở. Công chúa giả chào, rồi tỏ sắc buồn. Hỏa
Phiên hỏi: “Nay đã đủ hai ngay rồi, ta dọn tiệc rất đàng hoàng, vậy thì công
chúa hãy đi cùng ta ra đó ăn tiệc chúc mừng, đôi ta sẽ vầy duyên cầm sắt!” Công
chúa giả phân rằng: “Hiện giờ tôi vì nhớ cha mẹ quá mà ăn uống chi chẳng đặng,
lại rầu sợ nỗi duyên, biết tướng quân thương tôi có trót nặng chữ tình hay
không, hay là tướng quên còn gặp nhiều người tuyệt sắc theo hàng tiên gia, mà
làm cho tôi nặng tình hoài cảm đó chăng?” Hỏa Phiên nghe nói rất mừng mà rằng:
“Vậy thì ta xin thề”. Công chúa giả nói: “Hiện nay tôi có một trái táo, tôi mới
đi dạo ngoài động hái vào, nếu tướng quân thương tôi, thì ăn trái táo đó cũng
đủ rồi, cần gì phải ăn tiệc đồ của tướng quân làm ra. Chỉ trái táo ấy tuy không
quí, mà chính tay của thiếp hái!”.
Hỏa Phiên tướng nghe nói, hết sức vui mừng mà
rằng: “Nói thế, thì công nương đã sẵn lòng thương tôi đến đó, dễ nào trái táo
tôi lại chẳng vì lòng quí báu của công nương mà không ăn hay sao”. Nói dứt lời
cầm trái táo, vừa cười vừa bỏ vào miệng… Dè đâu chưa kịp nhai, táo đã chạy tuốt
vào bao tử! Liền lúc ấy Huê Quang đã hiện nguyên hình nói lớn rằng: “Ơ nầy loài
yêu quỉ, mi có biết ta không? Cớ sao mi dám bắt công chúa mà gieo oán ta thế
nầy hử?” Dứt lời miệng niệm chú, trong bụng Hỏa Phiên tướng bừng cháy lên. Làm
cho Hỏa Phiên kinh hãi, lạy dài Huê Quang xin ban ơn dung thứ cho, cho đến đổi
lết bên chân mà cầu cứu thứ dung! Huê Quang thấy vậy cảm động, bèn thâu hỏa nói
rằng: “Từ nay ngươi cải tà qui chánh chưa?” Hỏa Phiên tướng nói: “Tôi xin làm
nô lệ hầu hạ ngài luôn”. Huê Quang bèn dắt về miếu, ba người đồng ở đó mà phò
hộ dân lành, hưởng lộc cúng kiến hẵng bữa. Đây nhắc lại vị vua Thiên Điền từ
bữa công chúa khỏi nạn về cung, vua cha hết lòng mừng rỡ, hội yến điện thết đãi,
các quan vui vầy ca xướng.
Hồi thứ bảy
Giàu ác gặp
yêu hãm hại,
Kiết Đà
xuống thế hành hung
Từ hội khi Huê Quang lên thượng cung, đánh Thái
tử đập bể kiến, thả hai con yêu là Kiết Chi Đà và Bá Nhãn Quỉ. Cả hai xuống thế
phá hại người lành chẳng ít. Ngày kia, Kiết Đà trông thấy một nhà đại phú không
con là Vĩnh Phú, vợ là Phạm thị. Thường bữa Phạm thị ra giữa trời khẩn vái cầu
con Kiết Đà bèn bắt Phạm thị mà ăn thịt đi, rồi hóa hình giống in vào làm vợ
của Vĩnh Phú. Vĩnh Phú nào rõ tri cơ. Trong ít tháng trường Vĩnh Phú ăn nằm với
yêu Kiết Đà đã có thai, Kiết Đà cứ bảo Vĩnh Phú làm thịt heo mỗi ngày một con
mà ăn, cho rằng vì có thai nên thèm như thế. Vĩnh Phú thấy vợ có chửa rất đỗi
vui mừng, y lời làm thịt heo cho vợ ăn mãi. Kiết Đà nghe Vĩnh Phú nói hết sức
mừng. Vì chị ta thường ăn thịt người, nay nhịn thèm, chịu sao cho nổi, nên dùng
kế ăn thịt heo quay cho đỡ vậy đó thôi. Hai nữa gởi thân cho khỏi bề lưu luyến.
Nói qua Huê Quang tánh người anh hùng, không bao
giờ ngồi yên một chỗ đặng. Ngày nọ kêu ba vị thần căn dặn mọi điều rằng: “Nay
ta muốn đi chơi chỗ này, sang chỗ nọ cho giải muộn nơi lòng, cùng gặp ai làm
phải nạn nguy hiểm cứu người làm phước. Vì ta trông thấy ở thế gian hiện giờ có
nhiều yêu quái phá hại người hiền chẳng ít. Vậy thì ba ngươi ở đây mà phò hộ lê
dân, nếu cãi ta phản phúc việc gì thì hỏa đơn trong bụng cháy lên, không ai cứu
đặng đa nghe”. Ba thần đều vâng lệnh dạy. Huê Quang đằng vân giá vỗ đi chỗ này,
sang nơi nọ mà xem qua phong cảnh thế gian. Chàng ngã thân phận mình lênh đênh
buồn bã hết sức, trí nghĩ cần phải về thầy đầu thú tội lỗi, họa là thầy có
thương mình mà cho học đạo chăng không? Nghĩ vậy rồi bèn về ngay cung thầy là
Khuyến Thiện thiền sư. Bước vào cúi lạy dài hầu chịu tội lỗi lầm, bỏ động mà đi
trót hai năm trường!! Khuyến Thiện thiền sư hỏi rằng: “Bấy lâu nay ngươi ở nơi
nào, phải nói cho ta được biết thử nào?” Huê Quang bạch rõ các nông nỗi tội lỗi
dẫy đầy, đến việc đánh Thái tử, xuống miền thế gian lánh nạn tại miếu của vua
Thiên Điều. Khuyến Thiện toán quẻ rồi nói rằng: “Hiện nay trên thiên đình Ngọc
Hoàng đã sai binh trời xuống thế gian quyết bắt nhà ngươi cho đặng. Thế thì
ngươi trốn đâu cho khỏi đặng”. Huê Quang nghe thầy nói rất là lo sợ, bèn cúi
đầu lạy xin thầy tế độ, lo thế nào cho khỏi tội tình. Khuyến Thiện nói: “Bây
giờ chỉ có một thế trốn, là phải đầu thai đi mới đặng”. Huê Quang hỏi: “Bạch
thầy, bây giờ phải đầu thai cách nào, xin thầy dạy cho!” Khuyến Thiện bày rằng:
“Ngươi có phép đủ, vậy thời ngươi phải độn trong một cái bọc đỏ, đợi chừng sanh
ra, xé bọc chui ra, thì khỏi điều nhơ uế. Nếu ngươi muốn đi đầu thai, gần đến
giờ sanh, sẽ có ta cứu cho mới đặng”. Huê Quang hết sức đội ơn thầy cứu tử hườn
sanh một lần nữa. Nói rồi bái biệt Khuyến Thiện đằng vân hạ giải. Nói qua vợ
chồng Vĩnh Phú, vợ có thai đã quá ngày sanh mà chẳng thấy sanh. Nên đặt bàn
hương đăng trả quả, khẩn vái Phật Trời. Vừa lúc ấy Huê Quang đằng vân đến đó.
Nghe lời van vái, biết là vợ người nầy có thai, liền hóa ra cái bọc rồi sa
xuống ngay bụng Kiết Đà.
Phút chút Kiết Đà nửa đêm phát đau bụng lấy làm
khó chịu, bèn kêu Vĩnh Phú bày lời. Vĩnh Phú rước mụ lăng xăng kế đó. Kiết Đà
đã sanh, có người báo cho Vĩnh Phú hay rằng bà sanh ra một cái bọc đỏ, mà lớn
lạ lùng lắm. Vĩnh Phú nghi cho là ma quỉ đầu thai, bảo người đem liệng xuống
sông cho rảnh. Kiết Đà cản lại chẳng cho, để đợi xem cho kỹ. Vì hồi mới sanh
thì nhỏ, mà giây lát, cái bọc càng lớn càng to, nên nàng có ý hồ nghi. Phút
chút Kiết Đà rên la lần nữa; ngờ đâu đà sanh tiếp luôn một gái, mặt mày rất tốt
đẹp như con tiên, Vĩnh Phú rất mừng được một gái cưng. Liền sai gia đinh khiêng
cái bọc ấy đem bỏ dưới sông cho rồi, kẻo để vật lạ lùng trong nhà rất là ghê
sợ. Gia đinh khiêng liệng dưới sông, nhưng rất quái, hễ liệng xuống rồi cái bọc
cũng nhảy lên bờ mãi, túng thế gia đinh phải đem về, thưa lại cho Vĩnh Phú hay.
Vĩnh Phú lấy làm kinh ngạc, bảo bỏ ngoài vườn đợi tối sẽ chôn.
Nói về Khuyến Thiện thiền sư, biết là Huê Quang
đã vào sanh ở nhà Vĩnh Phú rồi, liền đằng vân đến đó. Giả ra một ông hòa thượng
vào nhà Vĩnh Phú. Đang lúc Vĩnh Phú mắc việc rắc rối lo sợ. Xảy thấy ông thầy
thì hỏi lơ là rằng: “Hòa thượng đến nhà tôi có việc chi?” Hòa thượng nói: “Tôi
muốn đến thăm ngài, vì nghe ngài là người hiền đức”. Nói chưa kịp dứt lời Vĩnh
Phú rằng: “Thưa Hòa thượng, tôi vì có việc nhà, vậy để ngày mai tôi sẽ hầu
chuyện mới đặng, xin lỗi ngài”. Khuyến Thiện cứ hỏi phân hoài, túng thế Vĩnh
Phú phải tỏ thiệt rằng: Vợ sanh ra một cái bọc quái ấy, cho Hòa thượng nghe.
Ông nghe rồi cho là nhà có phước lắm mới sanh được cái bọc ấy, hiện cái bọc có
năm người con trai quí báu lắm. Vĩnh Phú nghe không tin. Hòa thượng bảo đem bọc
ấy cho ông xé ra, quả nhiên ông lấy dao rọc ra có năm người con trai, mỗi người
đều biết đi hết. Vĩnh Phú lấy làm lạ. Hỏi thăm Hòa thượng căn do. Hòa thượng
rằng: “Mấy người con của ông là chơn tiên cốt phật, cho nên mới đẻ mà đặng như
vầy, để tôi đặt tên giùm cho”. Vĩnh Phú rất vui lòng đẹp dạ lắm. Hòa thượng đặt
rằng: “Đứa thứ nhất là Hiển Thông, thứ nhì Hiển Minh, thứ ba Hiển Chánh, thứ tư
Hiển Chí, thứ năm Hiển Đức”. Đặt xong Hòa thượng phán rằng: “Con ông chỉ có một
người thứ nhất là Hiển Thông sau ở với ông mà thôi, còn bốn đứa kia sẽ đi tu
thành chánh quả hết. Mà hiện bây giờ ông nuôi bốn đứa ấy cũng không đặng đâu”.
Vĩnh Phú rằng: “Nếu Hòa thượng nói thế, thì tôi phải làm sao?” Hòa thượng nói:
“Có một điều là ông phải cho bốn đứa cho tôi đem về chùa mới đặng mà thôi, ông
có vừa lòng không?” Vĩnh Phú đáp: “Điều đó tự như ngài thương tôi tính giùm tôi
rất đội ơn. Chớ nếu tôi nuôi không đặng, trông ơn ngài bảo hộ như thế, sợ e
nhọc lòng ngài”. Hòa thượng nói: “Không sao, tôi sẵn lòng làm phước, ngày sau
bốn đứa sẽ đặng thành chánh quả”. Vĩnh Phú nói: “Tôi rất đội ơn ngài”. Rồi đó
bốn người đều lạy tạ cha mẹ, hầu theo thầy học đạo, chỉ có một mình Hiển Thông
ở lại mà thôi. Khuyến Thiện thiền sư từ giã Vĩnh Phú rồi đằng vân đem bốn người
đi mất.
Hồi thứ
tám
Long Thoại
bắt Kiết chi Đà
Huê Quang -
Quỳnh Hoa mất mẹ
Nói về Huê Quang là Hiển Thông cùng Quỳnh nương
cùng lớn, tánh nết rất hùng cường. Mẹ là yêu Kiết Đà lại càng ỷ thế lộng quyền,
mỗi đêm bắt người mà ăn thịt. Đêm nọ Long Thoại vương đương đi tuần trên mây,
thấy thế Kiết Đà quá ác, bèn giả ra một ông hòa thượng đến nhà Vĩnh Phú, thừa
lúc Vĩnh Phú không có ở nhà. Gia đinh báo cho Kiết Đà hay. Bà ta rất là khoái
dạ, nếu ăn thịt được một ông hòa thượng rất quí lắm. Liền bước ra giả bộ hầu
chuyện cùng hào thượng đặng có thừa cơ bắt quách. Ngờ đâu Long Thoại đã hóa
nguyên hình, bắt Kiết Chi Đà rồi đằng vân bay mất. Lại còn lo cho bọn thần hạ
của Huê Quang là Thiên lý Nhãn và Thuận phong Nhĩ, e đem tin cho Huê Quang biết.
Long Thoại làm phép áng mắt và điếc tai hai vị thần ấy luôn, cho biệt tích.
Vừa trong lúc Long Thoại bắt mất Kiết Đà, gia
đinh kinh hãi la lên. Huê Quang không có ở nhà, còn Vĩnh Phú đều đi khỏi, chỉ
có một mình Quỳnh nương, hay tin mẹ mất rồi la khóc vang rần, rồi lại chạy
nghêu ngao ngoài đồng mà kêu mẹ. Rủi đâu lúc này đã tới vía của Ô Long, mấy ông
lang lo bắt con nít mà cúng tế thần yêu ấy. Quỳnh nương đi lạc kêu khóc ngoài
đường, bị mấy ông làng bắt quách, đem về trói để ngày mai cúng tế. Rất may
trong lúc ấy Huê Quang đương đằng vân trên mây, hầu xem coi binh trời hành động
thế nào, bỗng nhiên trông thấy em mình bị bắt trói dưới gốc cây kia, thì lấy
làm căm tức, bèn hạ xuống đến nơi kêu em mà rằng: “Em! Em! ủa sao em lại bị trói như thế này vậy em?”
Quỳnh nương khóc nói: “Mẹ bị ông thầy chùa nào bắt mất rồi, mà cha cùng anh
không có ở nhà, nên em nóng lòng tìm mẹ, đi lạc đường bị họ bắt trói em đây!” Huê
Quang mở trói cho em, rồi phân rằng: “Bây giờ anh hóa ra một lùm mây đưa em về
nhà, còn anh cần phải ở lại đây trả thù đứa bắt em cho được, anh mới vừa lòng
cho” Quỳnh nương ừ. Đoạn Huê Quang hóa mây đưa em về, còn mình trở lại hiện ra
Quỳnh nương đương bị trói đó.
(Xin
xem tiếp tập thứ ba)
Tập thứ 3
NAM DU HUÊ QUANG
Mấy
ông làng sửa soạn nhạc lễ nghinh ngang, rồi bắt đồng nữ là Quỳnh nương giả trói
kéo lại, trống phách om sòm đem đến miếu Ô Long tế lễ. Khi tế xong, trói bỏ Huê
Quang nằm đó, cùng nhau về hết. Huê Quang thấy việc lạ, thì cứ nằm yên xem thời
sự thể nào cho biết. Quả nhiên lúc êm lặng tiếng người, bỗng nghe ngọn gió lao
xao... có một con yêu, trông rất là ghê gớm, to lớn lạ lùng, chờn vờn hai tay
chụp Huê Quang bẻ cổ ăn thịt. Chẳng dè Huê Quang hiện nguyên hình, đâm cho
chàng ta một giáo... làm cho Ô Long cả kinh chạy. Huê Quang niệm chú bắt lại
hỏi rằng: “Ngươi có chịu đầu ta không, hãy nói mau kẻo chết„. Ô Long cúi lạy
xin đầu. Huê Quang nói: “Nếu ngươi biết ăn năn, thì ta cấm từ nầy, không đặng
phép bắt làng tế người như vậy nữa. Và ngươi hãy bảo làng làm y cốt ta mà thờ,
còn ngươi ở đây bảo hộ, xa gần làng xóm„. Ô Long vâng lời, Huê Quang cho uống
một liều hỏa đơn, rồi dạy kỹ lưỡng, hễ phản tâm ắt chết. Đoạn Huê Quang đằng
vân về cho Thiên lý Nhãn hỏi thăm nỗi mẹ. Cả ba bị thần đều nói: “Khi thấy Long
Thoại vương bắt đem lên mây không biết đem đi ngã ngào, chúng tôi đều không rõ
nữa„. Huê Quang cả giận la rầy một hồi. Ba vị thần nói: “Có lẽ Long Thoại vương
bắt đem xuống địa ngục. Vậy thì ngài giả Thái Ất rồi làm chay triệu các cô hồn
lên mà hỏi thăm cho rõ„. Huê Quang khen phải, bèn qua núi quang long tự, giả
Thái Ất làm chay triệu các cô hồn về, té ra mấy muôn vị cô hồn về ăn no, mà hỏi
ra không bị nào biết rõ Long Thoại vương đem giam cầm Kiết Chi Đà nơi nào tất
cả. Huê Quang cả giận không biết liệu phương nào, đành trở về miếu Thiên vương
mà bàn luận cùng ba vị thần. Ba vị thần thấy Huê Quang trở lại, đồng hỏi thăm
tự sự. Huê Quang tỏ sắc buồn, tìm không được tích mẹ bị Long Thoại giam cầm ở
đâu. Bàn bạc nghĩ ra, chỉ Long Thoại vương đem về động chớ không ở đâu khác,
tìm thế đến nơi đọc kiếm, họa là có gặp cùng chăng?
Vì Huê
Quang lộng quyền dám giả Thái Ất thiên tôn, nên nay Ngọc Hoàng đã hội hết triều
nghi. Ngọc Hoàng sắc chỉ sai Tống Vô Kỵ đem binh trời xuống bắt Huê Quang tại
miếu Thiên vương. Ngọc Hoàng phán rằng: “Nguyên soái khanh hãy bắt cho đặng Huê
Quang về nạp cho ta, vì bất lâu nay ta thấy Huê Quang ăn năn làm lành, trừ yêu
tinh quỉ quái nên ta có ý dung thưởng nó, nhưng nay nó dám giả Thái Ất thiên
tôn như thế, thiệt là vô phép quá, ta không dung tha được nữa„. Tống Vô Kỵ
nguyên soái lãnh chỉ y lịnh lãnh binh đồng đằng vân hạ giáng xuống nơi miếu
Thiên vương mà bắt Huê Quang. Tống Vô Kỵ nghĩ thầm sức mình không đủ bắt Huê
Quang cho đặng, vì Huê Quang biến hóa vô cùng. Tống nguyên soái nghĩ ra một kế
là giả một người khách thường đi đến đó, rồi thừa cơ mà bắt Huê Quang mới được cho. Nghĩ rồi bèn
hóa ra một người thường nhân đi tới miếu. Còn binh kéo chờ đợi trên mây. Khi
tới miếu không có Huê Quang. Hỏi thăm thổ địa, thì hiện nay Huê quang ở núi Ly
lâu. Tống Vô Kỵ liền đẩy xe qua đó. Hiện nay Huê Quang ẩn trong núi ấy, ắt là
khó lòng trốn cho khỏi nạn này.
Hồi thứ chín
Tông Vô Kỵ dùng mưu trí
Huê Quang đắc thắng thiên binh
Nói
tiếp qua vừa lúc Huê Quang bay lên trời tìm kiếm mẹ coi phải bị Long Thoại nhốt
nơi nào. Bỗng nhiên Huê Quang hay tin rần rộ nguyên soái Tống Vô Kỵ lãnh binh
trời xuống thế bắt mình. Huê Quang bảo ba vị đồng theo cùng mình về núi Ly lân
mà ẩn mới tiện cho. Khi Tổng Vô Kỵ tới miếu Thiên vương không có Huê Quang, nhờ
Thổ địa chỉ qua núi Ly lâu có Huê Quang ở đó, Thiên Lý Nhãn đều thấy rõ hết, đem
việc mà nói cho Huê Quang hay. Huê Quang định trí giả ra một người đàn bà lỡ
dường, nếu Tống Vô Kỵ mà cho mình quá giang xe, thì ắt mắc kế mình vậy. Nghĩ
thế bèn hóa ra người đàn bà đón đường ngồi khóc rất thảm thương. Khi ấy Tống Vô
Kỵ đẩy xe tới đó, thấy một người đàn bà ngồi khóc, thì hỏi rằng: “Nhà ngươi làm
gì nửa đường ngồi khóc như thế?„. Huê Quang phân rằng: “Dạ thưa đại nhân, tôi
vì có chồng ở xa đây, nên nay về viếng thăm cha mẹ, đi đã mấy ngày chân đà sưng
lên, nên đi nữa không nổi, trăm lạy đại nhân làm phước cho tôi quá giang xe về
núi Ly lâu!„. Tống Vô Kỵ nghe qua suy nghĩ lấy làm lạ: “Núi Ly lâu nào có người
ở đó, chỉ đây có một đều là Huê Quang giả hình chứ không ai. Như vậy thì may
mắn lắm, để ta gạt nó lên xe, rồi ta nhiệm chú đốt nó mới tiện cho„. Bèn nói
với người đàn bà ấy rằng: “Ta nghe ngươi bày bỏ, ta đồng lòng thương xót, có
vậy ta cũng làm ơn cho, ngươi hãy lên xe đây ta đưa về đến đó„. Người đàn bà
rất mừng, cám ơn liền bước lên xe. Tống Vô Kỵ lập tức niệm chú hóa lửa đốt. Huê
Quang hiện nguyên hình cười ngất mà rằng: “Nhà ngươi chẳng rõ ta là lửa hay
sao, lại đốt ta, đến đời nào ta chết mà đốt hử„. Dứt lời vùng bay xe hỏa về
động mình, đóng chặt cửa lại làm cho Tống Vô Kỵ cả sợ bay theo, cứ ở ngoài la
lối xỉ mạ Huê Quang. Huê Quang nổi xung đứng trên xe hỏa mà bước ra. Tống Vô Kỵ
mắng rằng:“Ơ nầy Huê Quang! Nhà ngươi đã trăm phần tội lỗi, dám đánh Thái tử,
nay Ngọc Hoàng sai ta bắt ngươi, sao ngươi chẳng hàng đầu, còn ăn cướp xe hỏa
của ta, ngươi mau đền tội, chớ để quá lòng trời, ắt là bất tiện„. Huê Quang
phân rằng: “Theo như lời nguyên soái đã kể rõ tội tôi, phận tôi đau đớn thế
nào, tôi chỉ thề có lòng tôi tự xử. Song xét kỹ ra, tội ấy vì Thái tử bất công
mới ra chuyển. Khi hội Quỳnh hoa Thái tử nào có công chi, lại dám giắt hoa mà
uống rượu; còn tôi là thế nào? Nguyên
soái xét thử?„
-
Vì cớ
nào ngươi phản nhựt cung như thế?
-
Vì
Đặng Hóa có hiềm thù cùng tôi, trong lúc thí võ, cho nên lúc tôi làm bộ hạ cho
y, thì y ỷ quyền hành hạ tôi mà trả thù, làm sao tôi chịu cho nổi cái điều hiếp
ức?
-
Phải
rồi, vì làm sao, ngươi dám về thiên cung thích khách Thái tử, đập bể kiến báu,
thả yêu, tội ấy nặng nhẹ là bao?
-
Nguyên
soái là phận cao dày, sao không xét kỹ, tôi về thích khách Thái tử Kim Thương,
là bởi Thái tử đã lỗi trước, hại tôi phải bị đọa đày, rồi còn đem binh trời
xuống thế bắt tôi, tức trí quá, buộc lòng tôi phải vậy chớ sao?
-
Ngươi
nói rất là khôn ngoan lanh lợi. Vậy còn ta với ngươi thù oán gì, mà ngươi lấy
hỏa xa của ta?
-
Bẩm
nguyên soái, đó là nguyên soái càng nghĩ sai nữa. Và tôi cùng nguyên soái nào
phải người thù chi. Song nguyên soái đem binh bắt tôi, nếu tôi cứ bó tay thì
vừa lòng nguyên soái, còn thân tôi oan ức thể nào. Tôi lấy xe hỏa là tôi cứu
lấy tôi chớ. Nguyên soái là người cao xa, cần gì phải hỏi tôi lẽ ấy.
Tống Vô
Kỵ nghe Huê Quang nói nổi giận mà rằng: “Nói như thế thì ngươi lớn gan, dám cãi
lệnh thiên đình đa há?“
-
Tôi
nào có lớn gan, đó là nhỏ gan chớ. Tội ai làm, rồi ép tôi phải chịu, bằng không
chịu là gan lớn. Chớ chi mà tôi tự bày ra cái tội của tôi, tức tôi phải chịu
ngay liền.
-
Ta
hỏi lại ngươi, hãy trả hỏa xa cho ta không?
-
Theo
lẽ phải, thì tôi chớ trao dây cho ngươi trói tôi là phải. Lẽ nào tôi trả hỏa xa
cho ngài đánh tôi sao?
Tống Vô
Kỵ nổi giận đâm Huê Quang một giáo, Huê Quang đưa thương ra đỡ. Cả hai đại
chiến vang trời. Tống Vô Kỵ liều bề đánh không lại Huê Quang, bèn hô thiên binh
áp chiến. Huê Quang bèn lấy tam giác kim chuyên mà liệng đại, làm cho binh
tướng lở đầu, sặc máu vỡ tan hết. Tống Vô Kỵ đành thất bại chạy về thượng giới.
Huê Quang thắng trận, vào động chưa yên, vì sợ còn nhiều người xuống khuấy rối
mình nữa. Còn Tống Vô Kỵ về tới vào quì bạch Ngọc Hoàng: “Huê Quang thật là làm
phản, chẳng kiên vị ai, dùng tài phép giết thiên binh, xin Ngọc Để sai người
xuống bắt đem về trị tội. Huê Quang lại dám cả gan ăn cướp hỏa xa, nên tôi phải
bại tẩu„. Ngọc Để nghe vậy quở phạt om sòm. Các quan đồng tâu rằng: “Xin Thượng
đế hãy hạ chỉ, sai Bá gia thánh mẫu và Hỏa Hà công tử, có năm trăm quạ lửa, ắt
là thâu đặng Huê Quang„. Ngọc Hoàng tức thì hạ chỉ cấp kỳ.
Mẹ con
Bá Gia thánh mẫu dẫn năm trăm quạ lửa xuống trung giới bắt Huê Quang. Đương lúc
Huê Quang ngồi trong động, Hỏa Phiên tướng tuần du về báo rằng: “Nay có mẹ con
của Bá Gia thánh mẫu đem quạ lửa xuống đánh đại vương, xin đại vương liệu lượng„.
Huê Quang nghe báo, liền mở cửa động ra, trông thấy Hỏa Hà công tử thì cười rằng
“Ngươi xuống đây mà bắt ta phải không? Ấy là tại ngươi, chớ trách ta, sức mi đủ
gì cho ta sợ„. Hỏa Hà công tử cũng đáp lại. Rồi đó hai đàng ẩu đả với nhau. Hỏa
Hà đánh không lại Huê Quang, nên dùng phép thả quạ lửa bay lên. Quạ lửa bay rồi
hạ xuống áp nhau cắn Huê Quang, Huê Quang vì bị cả bầy nên thất thể phải chạy
về động bế cửa! Ba vị thần hỏi thăm. Huê Quang phân rằng: “Ta bị năm trăm quạ
lửa áp bu cắn nên phải thất thế. Có vậy ta tính mưu nầy, rạng ngày Hỏa Phiên
tướng hãy hóa ra một cây đại thọ, đợi bầy quạ bay xuống, ta giả hình để đánh
cầm chừng với nó. Còn ta lên mây dùng hỏa đơn hóa ra đậu rải xuống nhử quạ mới
được cho„. Trời vừa hừng sáng, Hỏa Hà đến cửa động khiêu chiến. Huê Quang ra
trận, nhử Hỏa Hà đến cây đại thọ ấy. Hỏa Hà đánh chẳng lại Huê Quang, nên vội
vàng thả quạ ra. Huê Quang hiện hình giả ở đó. Còn hình thiệt bay bổng trên
mây, lấy hỏa đơn hóa đậu rơi xuống đất, bầy quạ hạ xuống áp lại ăn. Ăn rồi lên
cây đại thọ ấy mà đậu. Bị Hỏa Phiên tướng dùng lưới phép của Huê Quang bắt hết
bầy quạ đem về động. Huê Quang cả mừng bảo bầy quạ rằng :“Nay chúng bây đã bị
hột hỏa rơi vào bụng tồi. Chúng bây hãy đầu ta, bằng không thì hỏa đơn cháy
trong ruột mà chết“. Bầy quạ y lời, Huê Quang truyền lệnh, bảo bầy quạ về cắn
ngược chủ, là Hỏa Hà và Bá Gia thánh mẫu. Khi quạ bay về, mẹ con Bá Gia rất
mừng. Chẳng dè quạ áp rượt hai mẹ con mà đá. Làm cho hai mẹ con chạy mất. Quạ
bay về hầu Huê Quang. Huê Quang hết lòng khen tặng. Còn mẹ con Bá Gia Thánh Mẫu
về trời tâu cùng Ngọc Hoàng rằng: “Huê Quang thật tài ba quá lẽ. Mẹ con tôi đều
bị đoạt bầy quạ lửa rồi“. Ngọc Hoàng cả giận truyền đem mấy mươi vạn binh trời
xuống bắt Huê Quang. Các quan đồng tâu: “Bởi Huê Quang là ngọn đèn, nay chỉ có
Phật tổ trừ được mà thôi„. Ngọc Hoàng hạ
chỉ sai Thái tử qua núi Linh sơn mời Phật tổ. Giây lâu đức Thích Ca Như
Lai đến chầu Ngọc Đế. Ngọc Hoàng đem hết cá điều phản ác của Huê Quang mà tổ
cho Thích Ca nghe, và xin cầu Phật tổ bắt Huê Quang để trừ mối hậu hoạn. Thích
Ca phán rằng: “Xin Ngọc Hoàng đừng nghe lời sàm tấu, Huê Quang hiện nay ở dưới
thế gian hằng bắt được bốn, năm con yêu. Yêu ấy nó đã cải tà qui chánh. Vậy thì
Đức Ngọc Hoàng vui lòng phong cho Huê Quang một chức chi xứng đáng, thì trăm việc
đều yên. Chứ Huê Quang nào có phản cung Ngọc Đế đâu“. Ngọc Hoàng nghe rõ rất
mừng, liền hạ chỉ sai Lý Mậu xuống phong chức cho Huê Quang. Lý Mậu xuống đến
nơi, Huê Quang chào mừng. Lý Mậu trao chỉ của Ngọc Hoàng phong chức như cũ, hầu
ở dưới thế gian điều độ chúng dân. Huê Quang xem chiếu mình được Phật Tổ cứu
cho, Ngọc Hoàng rõ dạ, nay được chức Nguyên soái như xưa, nhưng phải ở miền
trần gian coi chừng yêu quái. Huê Quang lạy tạ muôn phần. Lý Mậu về trời. Còn
Huê Quang vào cho ba vị thần hay ngày nay chúng ta không còn lo sợ chi nữa. Đức
Ngọc Hoàng đã ân xá tội rồi. Ba thần nhảy nhót mừng rỡ. Còn Huê Quang tỏ sắc
buồn mà rằng: “Ta nay còn buồn một nỗi là Long Thoại Vương bắt mẹ ta, không rõ
đem giam cầm nơi nào, ta buồn rầu hết sức. Vậy thì ta phiền ba ngươi ráng ở
động coi chừng cho dân sự. Còn ta qua động Long Thoại Vương đánh đòi mẹ mới
được cho„ ba thần vưng lời. Đoạn Huê Quang đằng vân qua động Long Thoại Vương.
Hồi thứ mười
Long Thoại chạy đà trối chết,
Huê Quang tìm mẹ hết lòng
Hồi thứ mười một
Huê Quang giả làm Quan Âm,
Văn Thù đóng cửa lo mưu
Khi
Huê Quang bị Phật tổ quở, bắt Long Thoại không được, lấy làm căm tức tại Văn
Thù và Phổ Hiền ở núi Thành lương, bèn bay qua đó, giả làm Quan Âm đại sĩ, hầu
lấy núi Thanh Lương mà trả oán. Huê Quang hiện ra Quan Âm bước vào động. Hai vị
là Phổ Hiền và Văn Thù chào mừng tử tế, rót trà tiếp đãi. Bỗng thấy ngoài cửa
động Quan Âm đại sĩ bước vào nữa. Làm cho Văn Thù và Phổ hiền kinh dãi, không
rõ giả chân. Quan Âm thật bước vào quở mắng Huê Quang mà rằng: “Ngươi thật cả
gan lớn mặt dám giả ta tới cướp núi này phải chăng?„ Quan Âm cũng nói y như
vậy. Rồi đấu phép một hồi. Huê Quang đều làm theo được cả. Quan Âm đại sĩ nổi
giận nói rằng: “Ta không muốn bắt ngươi mà làm gì. Vậy thì ngươi hãy cùng đi
với ta lên thiên đình mà chiếu kiến, coi ai giả ai thật cho biết„. Quan Âm đạo
sĩ và Huê Quang đồng đi. Chừng đi nửa đường biến mất, vì biết lên đó phải mang
hại. Còn Quan Âm trở lại nói cho hai vị biết rằng: “Hai ngươi ráng coi chừng
cho lắm, chớ Huê Quang vì thù oán muốn ăn cướp núi nầy đa„. Dặn rồi về Nam hải.
Khi Huê Quang thấy Quan Âm đi rồi, liền đến núi Thanh lương và hăm bảo hai vị
ấy phải đi, để núi cho mình ở. Hai vị đóng cửa động, không dám nói chi trái
nghịch hết, vì Huê Quang dữ lắm. Hai vị bàn luận cùng nhau, cần trốn lên Nam
Tào mà báo với Ngọc Hoàng, họa là trừ Huê Quang có đặng chăng, chớ Phật không
hề làm gì, chỉ đuổi nó đi, rồi nó cũng lại nữa. Nghĩ thế bèn lên trốn ngả sau
thẳng tuốt lên Thiên đình tố cáo. Còn Huê Quang thì trở về núi mình lo tính mưu
kế. Còn khi Văn Thù bồ tát và Phổ Hiền bồ tát về đến Thiên đình tố cáo rõ ràng,
nguyên soái Huê Quang cứ hành hung nơi hạ giới, đòi đoạt núi đuổi người. Ngọc
Hoàng cả giận, gạn hỏi các vị, có ai dám xuống bắt Huê Quang? Các quan đều phú
cho Na Tra Thái tử đi bắt Huê Quang mới được. Ngọc Hoàng chỉ phán, Na Tra lãnh
mệnh, đồng khởi binh xuống núi Ly lâu, tới cửa động của Huê Quang mà khiêu
chiến. Huê Quang biết cho hai vị tu kia kiện cáo mới ra nổi nầy, liền kêu ba vị
thần mà dặn các việc. Huê Quang một mình bước ra. Đằng kia Độc Giác là tướng
tiên phong của Na Tra trông thấy Huê Quang thì hét lớn rằng: “Bớ Huê Quang!
Ngươi mau trói tay mà chịu tối, bằng nghịch mạng ắt không toàn„. Huê Quang cười
rằng:“ Ngươi là một kẻ dị hình như yêu quỉ, nay xuống nạp mạng cho ta phải
không?„ Dứt lời hai người xáp ẩy đả rất kịch liệt. Huê Quang lấy Tam giác kim
chuyên liệng vào mặt Độc Giác, trúng nhằm cái gạc rồng của Độc Giác, phun máu
đầy mặt. Độc Giác hoảng hồn chạy bay về trại, chịu tội với Na Tra. Na Tra trông
thấy cả giận, liền xuất binh ra trận, đến cửa động tung hoành. Huê Quang xông
ra gặp Na Tra, hỏi rằng: “Tôi hỏi qua nguyên soái, chẳng hay tôi có tội gì, mà
nguyên soái phải xuống bắt tôi như vậy, xin cho tôi được biết?„. Na Tra đáp: “Lệnh
Ngọc Hoàng đã bao phen tha tội ngươi, phong làm Nguyên soái ở dưới thế gian,
cứu dân bốn bể, cớ sao ngươi ở dưới này ý mình tài phép, phá đầu nầy, hại đầu
kia, còn cả gan ăn cướp chùa của thầy tu, làm náo động đến Ngọc Hoàng. Nên Ngọc
Đế chỉ sai ta xuống bắt ngươi về hành tội. Ngươi mau bó tay cho sớm„. Huê Quang
cười đáp rằng: “Tôi nào phạm những tội của Nguyên soái vừa kể đó. Ấy là hồi
trước kia tôi có, chớ hiện nay Ngọc Để tha những tội của tôi rồi. Nay chỉ vì
Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị thầy tu, ngày tôi đi tìm mẹ tôi, Long Thoại chạy
đến núi Thanh lương, hai vị thầy tu ấy cho Long Thoại mượn sư tử cưỡi chạy mất.
Tôi tức mình mới giả Quan Âm mà báo thù. Tức quá tôi mới phá động ấy, chớ nào
ăn cướp động ấy mà làm chi. Hiện tôi ở núi nầy, động này đã dư chỗ ở mà. Theo
như ngài bị mất mẹ như thế, có tức giận chăng, huống lựa là tôi?„. Na Tra nghe
vậy cũng là hữu lý, bèn nói với Huê Quang rằng: “Nói thế, thì bởi việc ức oan,
thôi ta bảo hãy nghe lời đây, về Thiên Tào mà cáo oan cho rõ lý, ta đây cũng
xin tội cho„. Huê Quang đáp rằng: “Theo lời nguyên soái phân, cũng lấy làm phải
lẽ, song hiềm vì nơi Thiên Tào, tôi bị nhiều người thù oán cả trào, dẫu cho
nguyên soái cho xin tội cho tôi cũng không đặng, vì họ đốc vô hại tôi chẳng
dễ„. Na Tra nói: “Nếu vậy, thì ngươi không về, muốn cự chiến cùng ta chăng„.
Huê Quang đáp: “Đó là tự ý nguyên soái!„. Hai người đối qua đáp lại, một hồi
xáp đánh nhau trọn một ngày không phân thắng bại. Đồng rút quân về trại, hẹn
ngày mai sẽ chiến nữa. Rạng ngày Na Tra dẫn binh ra, Huê Quang mở cửa động, kêu
Na Tra phân rằng: “Tôi xin nguyên soái một điều, là cần nên đấu phép cho biết
tài hay, chớ đánh võ hoài rất là mệt mỏi„. Na Tra rất bằng lòng. Hai người đấu
phép với nhau trọn ngày cũng không ai hơn ai, đến tối thâu binh. Qua ngày thứ
ba Bát Giác Xà xin Na Tra cho mình ra chiến với Huê Quang một bữa. Na Tra vì
mệt mỏi nên cho ngay. Bát Giác Xà ra trận, bị Huê Quang liệng tam giác kim
chuyên gãy hết ba sừng, còn có năm sừng, máu chảy đầy đàng, chạy về trại! Kế đó
La Long xin đi. Na Tra cho. Vì La Long có tài hóa nước, nên muốn ra thử với
hỏa. Khi La Long ra trận gặp Huê Quang, tức thì hóa ra nước mênh mông cả thấy.
Huê Quang hóa ra tam muội chơn độn thủy, rồi hóa ra lửa đốt rồng; làm cho La
Long bị phỏng mình chạy chết. Na Tra quở la ó dạy. Kế có Hòa hiệp Thần ra xin
xuất binh. Na Tra hỏi: “Ngươi
có phép chi mà xin đi?„. Hòa Hiệp thưa: “Bẩm nguyên soái, tôi có như ý nầy, có
thể thâu Huê Quang đặng„, bèn cắt nghĩa cho Na Tra nghe. Na Tra vui lòng cho đi. Hòa hiệp Thần cầm binh ra
trận, khiêu chiến trước động. Huê Quang mở cửa đón đánh. Hòa Hiệp nhị thần cứ
đỡ mà thôi. Huê Quang thấy hai thần rất kỳ dị, bèn liệng tam giác bắt quách cho
rồi. Ai ngờ Nhị thần đưa hộp như ý ra thâu tam giác của Huê Quang, làm cho Huê
Quang hãi hồn. Hiện ra hình khác, lấy hỏa đơn, quạ lửa vụt lên cũng bị thâu
luôn. Huê Quang trông thấy sẳng sốt... hai vị thần đưa tay ngoặt Huê Quang thâu
luôn vào hộp như ý. Lúc này Huê Quang đã mê sáng, dường như ngủ, chẳng còn biết
chi nữa hết. Phút chút binh tướng hô la vang động rằng: “Hòa Hiệp nhị thần đã
thâu được Huê Quang rồi...„. Huê Quang ở trong hộp giật mình tỉnh giấc, biết
mình đã bị bắt vào hộp rồi. Bèn nghĩ ra một kế, cần niệm chú cho hỏa đơn cháy,
phá hộp! Chàng bèn nhiệm chú vừa dứt lời, giây phút hộp như ý đã cháy tan ra
nước! Huê Quang ra khỏi, hỗn chiến với hai vị thần, nhị vị kinh hãi bị mất hộp
báu rồi, bèn chạy tuốt về trại tố cáo cho Na Tra nghe. Na Tra lấy làm tức giận,
quyết ra trận. Xảy thấy Thích Lịch bước ra cầu xin đi bắt Huê Quang. Na Tra
hỏi: “Nhà ngươi có tài chi đòi đi như thế?„.
Thích
Lịch thưa: “Tôi có tài làm sấm sét, nếu tôi gặp Huê Quang tôi cứ đánh y, ắt là
được việc„. Huê Quang đang ngồi trong động, xảy thấy Thiên Lý Nhãn báo tin, có
tướng khiêu chiến, Huê Quang ra trận gặp Thích Lịch, đôi đàng áp đánh. Thích
Lịch trá bại, rồi niệm chú sấm sét áp tới đánh Huê Quang. Làm cho Huê Quang
không đường đỡ đặng, phải chạy về động bế cửa! Thích Lịch đắc thắng về trại. Na
Tra cả mừng ghi công cho Thích Lịch. Còn Huê Quang về động rất là căm tức! Hỏa
Phiên tướng lại bày kế khác. Rạng ngày Thích Lịch khiêu chiến nữa. Huê Quang ra
trận liền giả hình đứng trơ đó. Thích Lích làm sấm sét đánh hoài không ăn thua.
Nào hay Huê Quang ở trên mây lấy tam giác kim chuyên liệng xuống, trúng đầu
Thích Lịch máu ra dầm dề. Thích Lịch cả kinh chạy tuốt về trại. Na Tra rất
buồn. Kết đó Thôn thế Quỉ bước ra xin đi. Na Tra hỏi: “Ngươi có phép chi, mà ra
đó nạp mạng?„. Thôn Thế Quỉ thưa: “Tôi có phép nuốt cả trái đất„. Na Tra cho đi liền. Thôn Thế Quỉ cả mừng ra
trận. Huê Quang thấy con quỉ dị hình, sức lớn lạ lùng, đương đứng tính dùng
phép mà đốt. Bỗng quỉ ấy đã há miệng, nhảy tới nuốt ngay Huê Quang vào bụng,
rồi thâu binh thắng trận về trại. Huê Quang bị nuốt vào bụng, bèn lấy hỏa đơn
ra niệm chú, lửa phát cháy trong bụng Quỉ. Làm cho quỉ ta cả kinh té bò la
chết. Huê Quang nói lớn rằng: “Nếu ngươi muốn sống thì hả miệng cho ta nhảy ra,
nếu diên trì ta đốt hết ruột gan mà chết!„. Thôn Thế Quỉ liền hả miệng cầu xin
Huê Quang ra, Huê Quang ra ngoài rồi, Thôn Thế Quỉ sợ vô cùng, chạy riết về bẩm
lại cho Na Tra hay. Na Tra rất buồn bã, chẳng biết làm thế nào bắt cho được Huê
Quang, hầu hồi binh cho sớm, kẻo trọn tháng dư; chưa làm gì được Huê Quang cả.
Đương lúc rầu lo, xảy có Tị Ô sứ giả hóa hình đệ tử của Diệu Lạc tới động; Huê
Quang chào mừng. Tị Ô sứ giả dối rằng: “Thầy sai xuống mượn tam giác đặng về đi
chầu Trời„. Huê Quang vô ý tưởng thiệt bèn lấy tam giác kim chuyên mà cho mượn,
căn dặn rằng: “Như thầy về Trời phò hộ rồi, mau trả lại cho tôi có việc dùng„.
Đồng tử y lời. Lúc nầy Thiên lý Nhãn rất hồ nghi. Quả nhiên nhìn theo thấy Tị Ô
về ngay trại của Na Tra mà dâng tam giác. Na Tra rất vui mừng. Thiên Lý Nhãn
thấy rõ bày tỏ cho Huê Quang hay. Huê Quang lấy làm căm tức! Còn Na Tra lấy
được tam giác rồi, liền thâu binh về tâu cho Ngọc Hoàng hay. Na Tra về tới
thiên đình tâu rõ các việc của Huê Quang ở thế, và dưng tam giác. Ngọc Hoàng
rất vui mừng thưởng tài Tị Ô. Na Tra cầu xin phong chức cho Huê Qung mà chiêu
an muôn việc. Nếu ngày kia mà Huê Quang tìm mẹ được, còn làm điều chi tái phạm
sẽ cử binh gia phạt. Thượng Đế y lời, hạ chiếu sai sứ xuống trung giới trao cho
Huê Quang.
(Xin xem tiếp tập thứ bốn)
Tập thứ 4
NAM DU HUÊ QUANG
Hồi thứ mười hai
Ngọc
Hoàng tha tội Huê Quang,
Từ
đây Huê Quang có vợ.
Khi
thiên sứ đến núi Ly lâu vào động, Huê Quang tiếp thiên sứ rất là lễ phép. Thiên
sứ trao chiếu chỉ cho Huê Quang xem. Huê Quang hết lòng mừng rỡ, được Ngọc
Hoàng tha tội. Huê Quang cùng bàn luận với ba thần rằng: “Nay việc giặc giã đã
đặng bình yên rồi, ta chỉ vì buồn bã, tìm mẹ chưa ra. Vậy thì ta phiền cùng ba
vị ở động coi chừng, để cho ta tìm nơi kiếm mẹ tôi, mà ngặt vì tam giác mất
rồi, làm sao tìm cho đặng mẹ!„. Thiên lý Nhãn suy nghĩ rằng: “Thưa đại vương,
bây giờ có một kế này, hiện nay bên núi Phụng hoàng động của Ngọc Hườn Thánh
mẫu có một cái tháp báu bằng vàng, rất thần thông huyền bí. Vậy thì Đại vương
dùng mưu lấy cho đặng tháp ấy mà nấu hườn lại, ắt được tam giác như xưa„. Huê
Quang nhớ lại rất mừng mà rằng: “Được, thế thì ta phải giả Thiên sứ đến mượn
tháp ấy giả đem về cho Ngọc Đế, thì bà Ngọc Hườn ắt cho„. Dứt lời Huê Quang
liền đi, đến núi Phụng hoàng giả thiên sứ vào động mượn tháp báu của Ngọc Hườn.
Ngọc Hườn tháp trao cho thiên sứ mà căn dặn rằng: “Vì núi này yêu ma nhiều lắm.
Như Thiên sứ về tâu lại Ngọc Hoàng, ngài dùng rồi mau hồi lại cho rôi, đặng tôi
giữ yêu mới đặng„. Thiên sứ xin vâng lời, từ tạ lui ra. Ấy là Huê Quang đã ăn
cắp được tháp, bay về động, vui mừng chi xiết. Bèn hóa lửa nấu tháp thành ra
Tam giác kim chuyên, liệng lên y như báu cũ. Huê Quang đắc chí còn cái mừng nào
hơn.
Nói
qua Ngọc Hườn Thánh mẫu, có một người con trai là thái tử Thành Sơn, cùng một
nàng là công chúa Thiết Phiến. Khi Huê Quang giả thiên sứ tới động, công chú
đứng sau bình phong lấy làm nghi lắm. Chừng Thiên sứ về rồi, chạy theo ngó
chừng không thấy về trời. Mới vào thưa cho mẹ hay rằng: “Thiên sứ mượn tháp sao
không chiếu, ắt là yêu quái giả mượn chăng?„. Ngọc Hườn rằng: “Lẽ nào yêu quỉ
dám bưng cái tháp ấy, song ta cũng hồ nghi„. Liền sai Thành Sơn ra đứng ngó.
Quả không có đem về trời. Ngọc Hườn Thánh mẫu cả kinh, liền sai Thành Sơn rằng:
“Con hãy qua Nam hải hỏi thăm Quan Âm đạo sĩ, họa là người chỉ giùm cho, chớ về
hỏi trên Thiên tào ắt là lậu chuyện chẳng dễ„. Thanh Sơn bay qua Nam hải hỏi
thăm Quan Âm, mới hay bị Huê Quang ăn cắp. Thành Sơn về cho mẹ hay sự bí mật của
Huê Quang như thế. Mẹ con lấy làm buồn bã. Công chúa Thiết Phiến phân rằng: “Mẹ
và anh chớ lo, để mặc tình em qua núi Ly lâu lấy lại„. Ngọc Hườn Thánh mẫu nói
rằng: “Con là phận gái, có tài gì cự địch cho lại Huê Quang, hầu lấy tháp báu
lại. Huê Quang tài phép vô cùng„. Công chúa tâu rằng: “Thưa mẹ, con có cây quạt
này, dẫu cho Huê Quang tài phép bực nào, tôi quạt cũng phải bay mất„. Ngọc Hườn
Thánh mẫu nghe con nói hữu lý, bèn y lời cho đi, mà căn dặn mọi điều: “Con cần
nên giữ thế, chứ Huê Quang không vừa đâu„. Công chúa cúi lạy xin vâng lời mẹ.
Rạng
ngày công chúa kéo binh qua núi Ly lâu mà khiêu chiến. Huê Quang đương ngồi
trong động, toan tính cùng ba tướng, tìm đường kiếm mẹ. Xảy nghe quân ó, bèn mở
cửa động ra xem. Thiên Lý Nhãn thưa rằng: “Quả thiệt một nàng gái sắc đẹp lạ
lùng, là công chúa Thiết Phiến con của Ngọc Hườn qua đây báo cừu vì mất tháp„.
Huê Quang ra trận. Thiên Lý Nhãn cho hay rằng: “Công chúa Thiến Phiến có một
cây quạt mầu nhiệm lắm. Quạt người bay bổng mấy rừng mây xanh, nếu rớt xuống
thì chết ngay. Vậy thì Đại vương hãy coi chừng trước„. Huê Quang nghe vậy cũng
lấy làm lo ngại. Đứng trước động trông ra, thấy một nàng gái nhan sắc tuyệt
vời, biết là công chúa! Công chúa kêu Huê Quang mà mắng rằng: “ Ớ này Huê
Quang! Ngươi mau trả tháp lại cho mẹ ta, bằng cãi lời ắt khó!„. Huê Quang rằng:
“Thiệt thì tôi đã nấu tháp thành ra Tam giác kim chuyên rồi, còn gì mà đòi
hỏi„. Công chúa cả giận mắng rằng: “Ngươi hãy trả Tam giác cho ta„.
Huê
Quang nói: “ Đế một ít lâu rôi dùng tìm mẹ xong, sẽ trả cho„.
Công
chúa nói: “Ngươi chớ gạt ta, nếu không trả, ta bắt ngươi bây giờ„. Huê Quang
nhìn công chúa khen thầm trong bụng rằng: “Thật thưở giờ ta thường biết hàng
ngàn tiên nữ, mà không có người nào nhan sắc tuyệt với như nàng này„. Chàng
màng suy nghĩ, công chúa hươ đao chém tới. Huê Quang lẹ tay đưa thương ra đỡ.
Cả hai đánh nhau có hơn vài mươi hiệp. Công chúa tá bại, Huê Quang đuổi theo.
Chẳng dè công chúa lấy quạt sắt ra quạt một cái, đưa Huê Quang bay bổng trên
không, hết hồn... công chúa quạt luôn ba cái, làm cho Huê Quang bay quá xa,
không biết đến nơi nào mà kể. Song nhờ Huê Quang biết đằng vân, nên không rớt
xuống đất đặng. Làm cho Huê Quang lúc bấy giờ ngơ ngẩn lấy làm lạ, cây quạt rất
báu vô ngần vậy. Huê Quang sa xuống đất thấy sứ này đều lạ, non núi bụi bờ mù
mịt. Huê Quang lấy làm buồn bã. Bỗng nghe có tiếng chuông trong núi. Huê Quang
có dạ mừng thầm, lần vào đó hỏi thăm cùng kiếm cơm đỡ đói. Nghĩ rồi lắng tai
nghe theo tiếng chuông mà đi. Đến nơi trông vào thấy một cái động của thầy tu.
Đây là động của Phong Độc ở xứ Bắc cực. Khi Huê Quang bước vào, thầy tu bước ra
tiếp rước rất là tử tế, mời ngồi xong xả, bèn hỏi rằng: “Chẳng hay người ở nơi
nào, tới tôi có việc chi xin cho tôi biết„. Huê Quang bèn thuật rõ công việc
mình cho Phong Độc nghe mà rằng: “Tôi tên là Huê Quang làm Nguyên soái trong
cõi Trời, trị yêu tinh mà độ tuế. Nay vì mẹ của tôi bị Long Thoại bắt giấu mất,
tôi nóng lòng đi kiếm, mà kiếm chưa ra. Rủi đâu gặp nhiều điều rắc rối hoài.
Mới đây rồi vì lấy huỳnh kim tháp của Ngọc Hườn, cho nên công chúa dùng quạt
báu, quạt tôi bay tới đây, cúi xin ngài cho tôi dùng một bữa cơm đỡ dạ„. Lão
thầy nghe dứt chào rằng: “Tưởng ai kia, chứ Nguyên soái thì tôi sẵn lòng chờ
đợi đây. Vậy thì nguyên soái dùng cùng tôi ít hột cơm khô„. Huê Quang trông
thấy mấy hột cơm thì phát buồn, sức mình ăn biết mấy ngàn hột cho no. Nhưng đói
quá nên ăn cho đỡ dạ. Nào hay ăn mới bốn hột đã no đầy cả bụng, chàng lơ láo.
Thầy tu lại mời ăn. Huê Quang cáo thôi. Ăn xong, lão thầy nhắm Huê Quang rồi
cười rằng: “Tội nghiệp Nguyên soái thì thôi, bị vợ quạt bay đà xa quá, mới tới
lão đây„. Huê Quang nghe lão nói lạ, hỏi rằng: “Ngài nói điều chi tôi không
rõ?„. Lão thầy nói rằng: “Thì ngài bị vợ ngài quạt„. Huê Quang đón hỏi: “Vợ tôi
là ai mà thầy nói lạ thế?„ Lão đáp: “Thì công chúa Thiết Phiến chớ ai„. Huê Quang
ngạc nhiên mà rằng: “Thầy nói lãng rồi đa. Công chúa với tôi là người thù, thầy
đừng gọi vậy không nên„. Lão thầy cười rằng: “Số là nguyên soái chưa rõ, chứ
công chúa có duyên nợ với Nguyên soái, số ở nơi tiền định rồi, lão đã biết rõ
mấy kiếp. Vậy thì lão sẵn lòng cho Nguyên soái một hườn thuốc này. Nguyên soái
về ngậm vào miệng, dẫu công chúa quạt mấy trăm cái cũng là vô hại. Rồi đó mới
thành việc vợ chồng với nhau„. Huê Quang nghe nói rất mừng, lãnh thuốc, tạ ơn
lão thầy chùa, bay về động cũ. Ba vị thần xúm nhau mừng rỡ. Huê Quang thuật
chuyện gặp thầy tu cho thuốc lại bày chuyện lương duyên như thế. Huê Quang nói:
“Thôi để ta ra trận thử xem„. Nói rồi mở cửa động, đến trại công chúa mà nài
đánh. Công chúa phi bạch mã ra, thật là cực đẹp, kêu Huê Quang mà nói rằng:
“Nhà ngươi bị ta quạt đà bay mất, ỷ mình có phép đằng vân, nên nay về đó; muốn
ta quạt cho ít cái nữa hay sao, mà tới đó„. Huê Quang cười rằng: “Nào công chúa
có quạt tôi bay đâu, ấy là tôi ngủ quên trong động chứ„. Công chúa nói: “Ngươi
nói dối, giỏi thì ta quạt bây giờ„. Huê Quang cam đoan rằng: “Công chúa làm tờ
với tôi đi, nếu công chúa quạt tôi bay, thì tôi theo hầu hạ, bằng quạt không
được, công chúa phải làm vợ tôi, có chịu không?„. Công chúa vì thấy hôm qua
quạt Huê Quang bay, nay chịu liền, song hứa lời là chắc, chứ không chịu làm
giấy tờ chi hết. Đoạn Huê Quang đứng sững cho quạt! Công chúa lấy quạt, quạt
một cái! Huê Quang đứng trơ trơ... Công chúa hết hồn, bèn quạt luôn mấy cái nữa
cũng như không! Huê Quang la lớn rằng: “Rán quạt cho mát giùm tôi, kẻo nực
quá!„. Công chúa thấy quạt mình không linh, thì quất ngựa giục chạy, Huê Quang
đón lại cười rằng: “Công chúa là người có giá trị, có lẽ nào quên lời hứa hay
sao?„ Công chúa thèn thùa, cúi mặt đành theo Huê Quang vào động...
Hồi thứ mười ba
Duyên nợ thật là xứng đáng
Hiếu mẹ quyết tìm cho gặp
Khi
Huê Quang cùng công chúa vào động, ba vị thần vui mừng chi xiết kể, trà rượu
bày tiệc bộn bề, năm người đồng ngồi ăn uống, lời qua tiếng lại rất là cao
thượng. Công chúa thấy tài sắc Huê Quang, nàng rất đẹp lòng. Còn Huê Quang
trông ra nhan sắc của công chúa thật là qúi báu. Rạng ngày Huê Quang cùng công
chúa vợ chồng đồng sang qua núi Phụng hoàng lạy xin tội cùng Ngọc Hườn Thánh
mẫu. Ngọc Hườn rất đẹp dạ. Vì Huê Quang là tướng trời, tài phép gồm đủ. Thế thì
Huê Quang đặng vợ quí, có lẽ từ này yên tâm cùng vợ. Nhưng mà không, ngày nọ
phút chút càng ngồi nhớ mẹ, châu lệ đượm đà! Công chúa thấy vậy hỏi rằng:
“Thiếp dám thưa phò mã, chẳng rõ phò mã có điều chi ẩn lấp dạ vàng, làm cho phò
mã phải rơi nước mắt như thế, cúi xin phò mã vui lòng cho thiếp biết, dầu cay
đắng mặn nồng thiếp cũng cùng chung chịu mới phải cho!„. Huê Quang nghe công
chúa hỏi rất cảm tình, bèn đem các việc mẹ mình bị bắt, mà thuật rõ đầu đuôi
cha nàng nghe, và buộc lòng vì hiếu, chắc phải phân cách chữ tình từ đây, hầu
đi tìm mẹ cho thỏa lòng đau đớn bấy lâu!. Công chúa nghe rõ lại càng xúc cảm khóc
ròng, bảo chàng phải vì chữ hiếu cho vẹn đạo làm con, còn chữ tình có muộn chi
mà phải bận lòng quân tử. Vợ chồng than vãn với nhau xong. Rạng ngày Huê Quang
ngao du, bỗng thấy bên đường có một bà già ngồi kóc lấy làm thê thảm. Huê Quang
đáp xuống gạn hỏi mọi điều. Bà già phân rằng, con bà bị yêu ma bắt mất, nên bà
khóc như thế. Huê Quang bảo bà chỉ chỗ con yêu ở. Bà nói rằng:“Kìa trong núi
nầy có một vị đạo sĩ tên là Lạc Thạch ở đó, hễ ai đi đến đây phải trả tiền,
bằng không thì lăn đá nát thây„. Huê Quang móc tiền cho bà. Rồi lần vào động
xem qua cho rõ thiệt hư. Vừa bước vô thầy một vị đạo sĩ liền cúi đầu chào! Đạo
sĩ lật đật mời ngồi trà nước. Đạo sĩ hỏi: “Chẳng hay quý khách là người ở đâu,
vui lòng cho tôi biết quí danh?„ Huê Quang đáp: “Tôi là con trai của Vĩnh Phú ở
Huy Châu, nay nghe núi này đẹp đẽ nên tới đây ngoạn cảnh đó ngài!„. Đạo sĩ nghe
nói con nhà giàu, thì trong lòng mừng lắm, bèn sai người dọn rượu ra đãi! Huê
Quang uống và chén giả say, lấy cục vàng ra cho đạo sĩ thấy. Cục vàng ấy là Tam
giác kim chuyên. Đạo sĩ trông thấy quá ư khoái chí, bèn nói với Huê Quang rằng:
“Công tử đến đây vậy thì công tử tính cúng vật chi nhiều ít cho tôi lập chùa
chiền mà thờ Phật đó công tử?„ Huê Quang đáp: “Cha chả rủi quá, tôi đi đường xa
đến đây cũng gần hết tiền, còn đủ sở phí đi về mà thôi. Vậy thì để kỳ sau tôi
lên sẽ cùng, chẳng muộn gì, việc Trời Phật miễn là mình có lòng vọng tưởng cũng
đủ rồi„. Đạo sĩ cười, nói nghe phờ ơ rằng: “Công tử không có lòng tưởng, chứ
nếu công tử là người giầu có, tiếc chi tiền bạc. Kia tôi thấy công tử có một
cục vàng đem theo đó. Công tử có lòng tốt, cúng ngay vật ấy, thì quí báu biết
dường nào a công tử?„. Huê Quang cười rằng: “Cục vàng của tôi đây, là vật vô
giá, bạn yêu của tôi mà làm sao tôi cúng cho đạng?„ Đạo sĩ ta trổ lòng tham quá
độ bèn tính trong bụng: cần nên đoạt phứt cho rồi, chớ nó đã đem vào miệng cọp,
dại gì không lấy để nói lâu. Nghĩ rồi nó lớn rằng: “Nếu công tử không bằng lòng
cùng, thì tôi cũng phải lấy ngay, để dành lên cốt Phật„. Huê Quang nói: “Nói
thế thì ngươi muốn ăn cướp của ta sao?„. Đạo sĩ chẳng nói nữa, bước lại nắm Huê
quang hầu giựt! Chẳng dè Huê Quang sức mạnh vô cùng, xô đạo sĩ té bó mà chạy
ra... Đạo sĩ hóa đá bay lên muôn số, rớt trên đầu Huê Quang. Huê Quang hiện
hình giả mà đỡ, còn hình thật thì ẩn trong, nổi lửa đốt chùa, lửa cháy rần rần.
Kế đó có hai người con gái ở trong chạy ra la ó! Huê Quang gạn hỏi mới hay là
hai người bị yêu bắt nhốt đằng sau, để làm vợ. Hai người cầu lạy xin Huê Quang
cứu cho. Huê Quang bèn hóa hai đám mây, mà đưa hai người về xứ. Hai nàng xin
hỏi danh tánh, hầu đền ơn cứu mạng. Huê Quang bày tỏ danh tánh. Còn Lạc Thạch
tưởng đâu là Huê Quang thật, cứ liệng đá như mưa. Ai ngờ trong chùa phát cháy
rần rần, làm cho Lạc Thạch thất vía trở vào thì chùa đã ra tro. Còn hai vợ đã
đi đâu mất. Lạc Thạch nhiến răng căm giận kẻ hại mình, mới rõ biết là Huê
Quang, càng thù vô hạn, nguyện ngày nào trả đặng mới an.
Hồi thứ mười bốn
Huê Quang lại được miếu thờ,
Lạc Thạch kiếm thế báo oán.
Nhắc
lại hai người vợ của Lạc Thạch, nhờ có Huê Quang hóa mây đưa về xứ. Ôi! Về đến
nơi, cha mẹ vô cùng mừng rỡ. Hỏi con duyên cớ bởi làm sao, mà đi biệt mất như
thế? Huỳnh Bá Kiều bèn đọc hết nỗi bị yêu bắt cho cha mẹ nghe và nhờ Huê Quang
Thiên vương cứu mạng, nên cầu xin cha mẹ lên cốt Huê Quang mà thờ, hầu trả chút
ơn sâu. Cha mẹ rất vừa lòng, lập miếu mà thờ.
Còn
Lạc Thạch khi bị Huê Quang đốt động rồi thì thù oán vô hồi, nhưng không dám làm
gì Huê Quang hết. Ngày nọ tuốt qua nhà vợ là Huỳnh Bá Kiều xem thử có trốn về
chăng. Quả nhiên gặp qua Bá Kiều bên nhà, mà lại có lập miếu thờ Huê Quang rất
là long trọng. Lạc Thạch định mưu giả ra Huê Quang thừa đêm nọ vào phòng, ép
liễu nài hoa cùng Bá Kiếu, ắt sao Huê Quang cũng mang tiếng xấu. Nghĩ vậy làm y
theo kế tính. Đêm kia vừa lúa canh khuya, Bá Kiều còn thức trong phòng, xảy có
tiếng kêu bảo mở cửa. Bá Kiều mở cửa, Huê Quang giả bước vào, miệng cười duyên,
liếc mắt nhìn Bá Kiều rồi gật đầu. Bá Kiều quì lạy nói: “Chẳng hay đại nhân có
việc chi đến phòng canh vắng!„ Huê Quang rằng: “Từ hôm ta cứu nàng tới nay, cớ
sao trong lòng ta ao ước, làm sao cùng chung gối với nàng, dạ vàng mới phí cho;
nên nay ta tới đây bảo nàng hãy vầy cuộc gió trăng cùng ta, rất là đáng mặt!„.
Bá Kiều thưa rằng: “Ngài là bực cao thượng, còn tôi phận thấp hèn, có lẽ
nào ngài dạy như vậy„. Lạc Thạch nói:
“Không cần thấp hèn, hay là cao sang chi hết, miễn lòng thương là đủ. Vậy nàng
có vừa lòng không, bằng cãi ta thì chớ trách„. Bá Kiều nghe càng sợ hãi, êm
lòng chịu ngay. Lạc Thạch mặc tình trăng gió, trò chuyện suốt đêm. Trời vừa
hừng sáng, Lạc Thạch căn dặn Bá Kiều, mai sẽ đến nữa; rồi đi mất mà ẩn hình.
Rạng ngày, ch mẹ của Bá Kiều lấy làm hồ nghi vì đêm trong phòng con có tiếng to
nhỏ. Bèn kêu Bá Kiều gạn hỏi, Bá Kiều phải khai ngay những điều của Huê Quang
buộc gió trăng. Cha mẹ của Bá Kiều càng nghe càng giận, truyền đốt miếu cho
rồi, thờ chi người vô lễ, đã là thần là thánh, ai mà dê như thế ấy. Bà mẹ Bá
Kiều là người có trí độ xa nói rằng: “Có lẽ đâu Huê Quang lại đi làm điều tà
vạy ấy, ắt có con yêu nào đó nữa chăng? Vậy nên đến miếu Huê Quang mà cầu cứu
thử coi, chừng nào quả vậy sẽ hay chẳng muộn„. Ai nghe cũng cho như thế là
phải. Cha mẹ Bá Kiều y lời, đến miếu Huê Quang khẩn vái. Đương lúc Huê Quang ở
động, xảy Thuận Phong Nhĩ mách bảo cùng Huê Quang các điều như thế. Huê Quang
liền bay sang qua đó, đứng sựng trên mây, kêu ông bà hỏi rằng: “Ông bà vái ta
điều chi đó?„. Ông bà đều thuật rõ chuyện lạ kỳ như thế ấy. Huê Quang hạ xuống
đi ngay vào miếu, kêu Bá Kiều hỏi rõ mọi việc. Rồi dặn Bá Kiều rằng: “Vậy thì
đêm nay ngươi hãy dời nơi khác mà nghỉ, để phòng đó cho ta, vào hóa giả hình
dung hầu bắt con yêu ấy cho mà coi„. Dứt lời biến mất. Tối lại Bá Kiều lên ẩn
nằm chung với cha mẹ. Còn bên phòng bỏ trống, thử đêm nay động tịnh thế nào!
Trời đã tối, Huê Quang đã ẩn hình vào phòng Bá Kiều, giả ra hình Bá Kiều nằm
trên giường. Lạc Thạch vì lời hò hẹn, chàng ta giả ra hình Huê Quang mà đi vô
như bữa trước. Vừa vào miệng cười bước lên giường chưa kịp nằm, bị Huê Quang
nắm óc, hiện hình thiệt nói lớn rằng: “Loài súc vật mi khiến chết, dám giả hình
ta!„ Liền kêu nội nhà thắp đèn đem vô, trông thấy Huê Quang đương nắm một con
rắn rất lớn. Làm cho ai nấy rùng mình kinh sợ, thối lui. Huê Quang kêu rằng:
“Ai nấy chớ sợ, ấy lấy là yêu nó hiện hình nguyên cốt, để ta đập chết, đừng
sợ„. Huê Quang móc tam giác ra, vừa muốn đập xuống. Mãng xà la lớn rằng: “Tôi
xin đại vương tha tội tôi một lần, ơn bằng non thái„. Huê Quang ngừng tay hỏi:
“Ngươi chịu đầu ta không?„ Lạc Thạch nói: “Tôi xin đầu làm bộ hạ ngài tới mãn
kiếp!„. Huê Quang bảo: “Vậy thì ngươi hãy hiện hình người đi, hầu xưng tên cho
ta biết?„. Lạc Thạch vưng lời, hiện ra rõ là đạo sĩ ở núi hôm nọ, bị Huê Quang
đốt động. Huê Quang cười rằng: “Sao đạo sĩ cả gan đến thế, dám giả hình ta mà
làm điều nhơ nhuốc?„. Lạc Thạch tỏ hết nỗi lòng thù oán mới sanh kế báo thù,
rồi nói: “Vậy trăm lạy Đại vương xá tội tiểu nhơn!„ Huê Quang nói: “Thôi ta
cũng dung cho, nếu muốn sống, thì hóa nguyên cốt con rắn, quấn trên đều cây
thương của ta, thì ta mới có thể tha đặng, chớ để ngươi ra ngoài phá thiên hạ
nữa„. Bạch Xà đành làm y như lời dạy. Huê Quang liền từ tạ ông bà mà đi. Ông bà
và Bá Kiều lạy tạ đưa đi.
Huê
Quang đằng vân về núi Ly lâu, các tướng đều mừng rỡ, trông thấy cây thương có
con bạch xà đều hỏi? Huê Quang tỏ bày xong mà rằng: “Vậy các ngươi ở nhà xem
xét việc thế gian, còn ta cần đi tìm mẹ„. Dứt lời bay qua núi Phụng hoàng vào
thăm mẹ vợ và vợ. Công chúa rất mừng hỏi thăm các việc tìm mẹ thể nào? Huê
Quang rất buồn tìm chưa được gặp! Công chúa thưa rằng: “Nếu phò mã muốn biết mẹ
sống thác thể nào, trước phải đến Đông Nhạc đại đế mà hỏi thăm mới rõ được, vì
Đông Nhạc là nơi xem xét về việc chết sống„. Huê Quang cả mừng, rạng ngày đi
ngay qua đó. Khi Huê Quang đến cửa động Đông Nhạc, có người giữ cửa gạn hỏi
rằng: “Ngươi ở đâu, đến có việc gì?„. Huê Quang rằng: “Ta là Nguyên soái Huê
Quang muốn vào ra mắt thánh đế, vậy ngươi mau mở cửa„. Kẻ gác cửa nghe nói tên,
ai cũng rùng mình, không dám mở. Huê Quang hầm hầm muốn liệng Tam giác cho bể
sọ. Cả thảy vào báo cho Đông Nhạc hay, Đông Nhạc lấy làm lo sợ; bàn bạc cùng
các quan, ai cũng tâu mở cửa, coi Huê Quang đi có việc gì, chớ đóng cửa ắt là y
phá hại. Đông Nhạc truyển mở cửa cho Huê Quang vào. Đông Nhạc và các quan đồng
ra tiếp rước. Huê Quang nói: “Nguyên mẹ tôi là Phạm thị hiệu Kiết Chi Đà không
rõ còn sống hay chết rồi, xin Thánh Đế cho tôi được biết?„. Tra bộ trong hồi
lâu, Thánh Đế nói: “Kiết Chi Đà không có trong bộ tử, ắt là còn sống, chỉ có
Phạm thị thì có vào bộ tử rồi„. Huê Quang ngạc nhiên mà rằng: “Ủa! Kiết Chi Đà
và Phạm thị chỉ là mẹ ta có một người, sao nói lạ như vậy?„. Thánh Đế nói: “Quả
thiệt hai người, người còn, người mất chứ„. Huê Quang làm hung cứ cãi một người
mà thôi. Thánh Đế thấy Huê Quang dữ tợn, nên nói êm rằng: “Tôi phiền cùng
Nguyên soái, vì tôi đây chỉ biên tên mà thôi. Vậy Nguyên soái hãy đi thẳng
xuống âm cung, mới rõ trắng đen minh bạch đặng, vì nơi đó có đủ hình thức„. Huê
Quang liền từ tạ mà đi ngay xuống âm phủ. Làm cho ai nấy hãy còn hồi hộp, sợ
Huê Quang gây gổ mang tai họa!
Khi
Huê Quang đi tới đó, Độ phu hỏi: “Ngươi ở đâu đi một mình không ai dắt dẫn, mà
dám đi như thế?„.
Huê
Quang trợn mắt mà rằng: “Ta là Huê Quang Nguyên soái, ta xuống đây tìm mẹ, ta
cần gì ai dắt; ngươi phải chèo cho mau, lâu lắc, ta đạp xuống sông chết hụt bây
giờ„. Độ phu nghe nói tới tên Huê Quang đều kinh hồn, sợ hãi. Huê Quang thấy độ
phu muốn buông chèo; thì nổi giận hét lên một tiếng độ phú té xỉu. Huê Quang
qua khỏi sông rồi, đi ngay vào đền Diêm vương. Quỉ thần về báo, Diêm chúa hãi
hồn, sợ Huê Quang náo địa ngục, đều đóng cửa luận bàn. Huê Quang kêu cửa càng
lớn tiếng. Diêm chúa túng thế phải mở cửa nghênh tiếp rất là trọng thể. Vào
trong Huê Quang cầu xin hỏi mẹ là Phạm thị - Kiết Chi Đà sống thác thế nào?
Diêm vương xem sổ bộ rồi nói rằng: “Kiết Chi Đà thì không có xuống đây, chỉ có
Phạm thị thì xuống đây rất lâu rồi đó ngài„. Huê Quang tức giận vỗ bàn nói:
“Nào có phải hai người, chỉ vì có một mẹ ta mà thôi„. Diêm chúa sảng sốt rằng:
“Thật vậy đó ngài, nếu ngài không tin, tôi bảo quỉ dắt Phạm thị ra đây cho ngài
nhìn nhận„. Huê Quang nghe vậy hối mau.
Quỉ dẫn Phạm thị ra. Huê Quang nhìn không phải mẹ, nạt rằng: “Người nầy
nào phải mẹ ta là Kiết Chi Đà đâu!„. Phạm thị khóc nói: “Tôi là vợ của Vĩnh Phú
ở dương gian, tên là Phạm thị, vì vợ chồng tôi không con, hằng đêm tối ra vườn
cầu con, xảy bị Kiết Chi Đà bắt tôi mà ăn thịt, lại thay hình đổi xác tôi, mà
làm vợ Vĩnh Phú. Thật là khúc oan đó người!„. Huê Quang nghe rõ động lòng
thương xót vô hạn! Nói rằng: “Vậy thì bà cũng là mẹ tôi„. Bèn nói với Diêm
Vương rằng: “Vậy tôi xin cùng Diêm chúa xá tội cho mẹ tôi, mau cho đi đầu thai,
khỏi đường lao lý„. Diêm vương y lời, cho Phạm thị đi đầu thai vào nơi sang
trọng. Còn Huê Quang từ giã Diêm vương trở về trần thế. Làm cho Diêm chúa đều
mừng!
Hồi thứ mười lăm
Giận Đông Nhạc, Huê Quang toan đốt điện,
Nhớ mẹ già, con hiếu xuống Phong đô.
Huê Quang trở lại tới gần đền Đông Nhạc, còn
nghĩ giận thầm, cũng vì Đông Nhạc lôi thôi, mà ta đánh mang tiếng náo địa phủ.
Vậy thì thừa dịp ta đốt cung cho rảnh mà rửa hờn. Nói rồi bén hóa ra lửa đốt
cung. Nhưng đốt hoài không cháy. Huê Quang lấy làm lạ dòm lên, thấy con rắn hai
đầu nằm trên nóc cứ phun nước mãi. Huê Quang tức giận vừa muốn lấy Tam giác mà
liệng. Phút thấy trong động hai vị thần đi ra kêu Huê Quang nói rằng: “Thật
ngươi rất vô phép, cớ sao dám đốt động của chúng ta? Nếu ngươi đi mau thì khá,
bằng cãi, chúng ta sẽ khóc một hồi, bắt ngươi đem về nạp Thượng Đế phân xử„.
Huê Quang cười rằng: “Hai ngươi hãy khóc cho ta xem đi!„. Hai vị thần bèn khóc
lớn lên!! Huê Quang liền bị cứng cả cái mình mà chết! Hai vị thần bèn lấy hòm
giấy, đem xác Huê Quang mà liệm vào, đồng khiêng lên Thượng Đế!... Nói qua
Khuyến Thiện thiền sư, hay tin Huê Quang bị nạn, liền đằng vân đến đón hai vị
thần kia mà hỏi rằng: “Hai người làm gì khiêng vật chi lạ kỳ như thế?„. Hai vị
thần nói: “Đây là khiêng xác Huê Quang đem về nạp Thượng Đế, nên chúng tôi khóc
nó chết„. Khuyến Thiện cười rằng: “Hai ngươi làm việc hại đó. Vì Huê Quang đã
được thượng Đế xá tội rồi lại phong cho làm Nguyên soái trấn ở thế gian, nay
hai ngươi cả gan mà bắt chết như thế nầy, chắc sao về tới Ngọc Đế sẽ bị tội
chẳng vừa„. Hai vị thần nghe qua sảng sốt, cầu xin cùng Khuyến Thiện tính thế
nào cho Huê Quang đặng sống lại. Khuyến Thiện nói: “Vậy thì hai người đốt hòm
cháy, ắt Huê Quang sống dậy„. Hai vị làm y theo, Huê Quang sống dạy, móc cục
Tam giác liềng hai vị thần lở đầu chạy mất.
Huê Quang
nhìn biết, đây gần động thầy mình chắc sao cũng nhờ thầy cứu mạng, bèn đi thẳng
vào lạy tạ tôn sư, Khuyến Thiện nói rằng: “Đệ tử thật rắc rối lắm, đi tìm mẹ
sao không hỏi thăm ai là người biết mà chỉ cho, đi xuống địa ngục làm gì cho mang
họa„. Huê Quang bạch cùng thầy cầu xin chỉ giùm mẹ. Khuyến Thiện nói rằng:
“Hiện nay Kiết Chi Đà bị nhốt tại Phong đô hành hạ, vì Chi Đà ăn thịt người rất
nhiều, nên giam nơi ngục ấy. Đệ tử muốn tìm, thì lo mưu lấy„. Huê Quang khóc
mẹ, rồi từ giã thầy, về thăm vợ hầu bàn luận việc qua Phong Đô.
Khi
Huê Quang về tới, vợ chồng mừng rỡ. Huê Quang bày tỏ cho vợ nghe rằng: “Hiện
nay mẹ bị giam nơi Phong Đô. Vậy thì cần giả làm Thiên sứ qua đó dắt mẹ về mới
tiện cho„. Nghĩ rồi giã từ vợ mà đi. Qua đến nơi vào cung dối rằng: “Thiên tào
sai đi giải yêu về trời„. Vua Phong Đô biết là giả nên vừa lấy kiếng ra mà rọi
sứ. Huê Quang sảng sốt bay lên nóc chùa rình nghe thử. Nghe các quan bàn luận
rằng: “Thường giải yêu thì chỉ có một mình Thái Ất thiên tôn mà thôi„. Huê
Quang nghe vậy về cung bàn luận cùng vợ: “Ta phải giả ra Thái Ất mới tiện cho„.
Rạng ngày giả Thái Ất qua đó, vua Phong đô hồ nghi lấy kiến rọi nữa. Huê Quang
lấy làm tức giận, vì tại sao bị cứ tình nghi hoài, tìm mẹ không được, rất nóng
lòng. Huê Quang rình nghe rằng: “Thường Thái Ất đi thì có người hầu hạ và pháp
bối rất là tề chỉnh„. Chàng bay về than khóc với vợ, chẳng biết mưu chi tìm mẹ
cho đặng bây giờ! Công chúa nghe nói hứa rằng: “Tôi có thể lo cho Phò mã đủ
người hầu hạ và phép bối giống như lời của Phò mã nói đó. Vì tôi có một đứa em
gái hiện đương hầu hạ Thái Ất thiên tôn là Ngọc Nữ„. Huê Quang mừng rỡ vô hồi
bảo vợ hãy lo cho kịp. Công chúa bèn đi lên động Thái Ất mà tỏ thiệt cho em
mình biết việc như vậy hầu sở cậy giúp giùm. Ngọc Nữ liền hạ về núi bàn tính lo
cùng anh rể. Hơn mười ngày mới lo xong các việc. Rạng ngày Huê Quang lên ngồi
trên xe, hóa ra Thái Ất thiên tôn, còn mười người hầu hạ, xem rất là oai nghi
đẹp đẽ. Lần qua cho tới Phong Đô có quân báo cho vua hay rằng: Có Thái Ất thiên
tòa tới, vua và hàng các quan đồng ra tiếp rước rất long trọng, vì vua nhìn quả
Thái Ất có đủ người hầu hạ, chẳng phải như kẻ giả dối khi trước. Thái Ất giả là
Huê Quang rất là tề chỉnh nghiêm trang phán rằng: “Vậy ta phiền mở của động dắt
yêu ra cho ta lựa người nào tội nhiều giải về cho Thượng Đế hành phạt„. Vua
Phong Đô y lệnh, mở cửa động... Ôi! Nghe tha thiết thẳm những tiếng cấu cứu
Thái Ất! Huê Quang giả bảo bắt Kiết Chi Đà ra cho mau. Quỉ dẫn ra trao cho Thái
Ất, tức thì khiến bộ hại dẫn đi cho mau. Vua Phong Đô lấy làm lạ, cớ nào Thái
Ất xuống đây chỉ dắt có một mình Kiết Chi Đà... Vừa lúc Thái ất giả dần đi, sau
các quan đem kiến rọi theo... Thấy rõ là Huê Quang, chớ không phải Thái Ất thật.
Vua tôi sẳng sốt, liền hối binh rượt theo, nhưng nghĩ lại rất khó lòng mà đánh
cho lại Huê Quang, đành về Trời mà báo cho xong. Còn Huê Quang đem mẹ về tới
động rất là mừng rỡ. Kiết Chi Đà bảo con phải đem thịt người cho mẹ ăn, bằng
không là con bất hiếu. Huê Quang túng thế bắt thịt thú mà cho dùng. Song bà
dùng đỡ, bảo Huê Quang kiếm thịt người cho bà mà thôi. Huê Quang cùng vợ là
công chúa, tính đi tìm thuốc trừ tật ấy. Nghe vậy vua Phong Đô cho người lên
gạt Kiết Chi Đà mà thuốc cho chết đi, ắt là trọn việc. Người tới giả thầy có
thuốc hay, Huê Quang mừng rỡ, dắt vào, ngờ đâu Kiết Chi Đà nhớ mặt ở ngục Phong
Đô, ắt là thuốc bà ta cho chết, Huê Quang nghe mẹ nói nổi giận đòi giết. Người
ấy xin thú tội, và bày rằng: “Thiệt thì bây giờ Nguyên soái nên lén đến cung
Tây Vương Mẫu mà ăn cắp được đào, cho lệnh đường ăn thì hết thèm thịt người
nữa„. Huê Quang nghe rõ biết sự thiệt, nên thả cho Ma y về...
Huê
Quang bàn cùng vợ rằng: “Nếu bây gờ lên Tây Vương Mẫu xin đào chắc là không
đặng, chi bằng ta giả ra khỉ đi hái trộm ắt xong„. Nghĩ rồi bèn bay đi, đến nơi
lẻn ra vườn đào, thấy đào chín mùi thơm bát ngát. Huê Quang hái trộm được sáu
trái, liền đằng vân bay về động, đem dưng cho Kiết Đà ăn thử. Quả nhiên bà nói
rằng: “Ta ăn đào rất ngon quá, còn nữa cho thêm„. Bà ăn luôn sáu trái, phút bà
nói lớn rằng: “Cớ sao nay ta cả mình đều nhẹ như lông, miệng ta lại không thèm
thịt người nữa, mà cho đến thịt thú ta ngửi cũng hôi tanh quá. Ắt từ đây ta ăn
bông thì thích dạ!„. Huê Quang vợ chồng mừng rỡ vô chùng, biết cho mẹ mình đã
cải tà qui chánh rồi. Từ đây bà lần lần hóa ra một người lịch sự như tiên.
Nói
qua trên động Tây vương Mẫu kẻ giữ vườn đào báo cho bà hay rằng: “Trong đêm hồi
hôm, chẳng rõ ai vào vườn bẻ mất hết sáu trái đáo, mà coi lại là dấu chân khỉ
mớ là là lùng hết sức!„. Tây Vương Mẫu không rõ tại lẽ nào, nên bay ngay qua
Quan Âm đại sĩ cầu xin hỏi. Quan Âm xem xét xong nói rằng: “Huê Quang giả hình
khỉ mà ăn trộm về cho mẹ là Kiết Chi Đà ăn chứ không ai hết„. Tây Vương Mẫu bèn
lên Thượng đế mà cáo báo. Ngọc Hoàng nổi giận, vì Huê Quang vô lễ hái trộm đào.
May nhờ có Khuyến Thiện đi chầu đó, mới tỏ cho Ngọc Hoàng hay rằng: “Vì Huê
Quang hiếu mẹ mới ra nông nỗi, xin Thượng Đế thứ dung„. Ngọc Hoàng hỉ xả, Tây Vương
Mẫu cũng bằng lòng. Huê Quang được thứ, về bái mạng đại ân.
Nói về
Thích Ca như lai, nói với đệ tử rằng: “Huê Quang xưa có thề với ta rằng: ngày
nào gặp mẹ thì trở về tu. Nay nó còn mê thế, e cho ta đây mang tiếng. Vậy La Hán
hãy vâng lời xuống gạt nó mà bắt về cho ta. Kế ấy hãy làm như vầy....„. La Hán
vâng lệnh mà đi, xuống gặp Huê Quang bày ra hát thuật cắt tay cắt chân rồi ráp
lại như nguyên. Huê Quang rất hâm mộ, bảo La Hán dạy, ai ngờ khi cắt chân, La
Hán sai sư tử tha chân Huê Quang về núi Linh Sơn. Khi ấy Huê Quang mới nhìn La
Hán và sư tử biết mình bị thầy đòi. Bèn ngồi xe hỏa về núi Linh sơn vào lạy
thầy xin tội, quyết xin ở lại tu hành. Thích Ca ráp chân cho. Ai dè Huê Quang
vụt chạy. Thích Ca niệm chú chân rớt nữa. Huê Quang hãi kinh cúi đầu xin ở lại,
không hề dám dối nữa! Thích Ca ráp chân và gắp con mắt lại như xưa. Thích Ca
nói cho Huê Quang rõ: “Nay thầy đã đem hết mấy người có lòng thành kính phật về
đây đủ rồi, anh em huynh đệ, và cha mẹ ngươi mấy kiếp cũng đều đủ hết trước
kia. Vậy ta phong cho ngươi là Phật trung thượng thiên vương„. Huê Quang cúi
lạy, rồi bước ra trông thấy gia quyến mấy kiếp cha mẹ anh em đều đủ, vui mừng
xiết bao! Rồi đó Thích Ca dắt Huê Quang lên Ngọc Đế mà chầu, Ngọc Hoàng phong
cho chức Hiển linh thiên vương, lo bề cứu dân độ thế. Huê Quang hết sức đội ơn
đức Phật Trời. Lãnh chức tuần du trung giới.
Tới
đây bộ truyện Nam du Đã hết. Xin xem qua bộ “BẮC DU CHƠN VÕ„
Khi về
trời Huê Quang thí võ với Thái tử Kim Thương rất là màu nhiệm.
Giấy
phép số 83/TXB của Nha T.T.N.V phát ngày 28-2-51