http://www.mediafire.com/view/?8oeadhxe56axnbl
Bắc Du Ký [Bắc Du Chơn Võ]
HỒI
THỨ NHẤT
Vua
thượng giới yến ẩm ca xang
Thời
nhà Tùy vua Dương đế là Dương Quảng, bởi vua lỗi đạo, nên đời sinh yêu nghiệt
nhiều. Truyện Thuyết Đường có tỏ việc quốc sự dương gian. Còn truyện này tỏ về
việc âm, nói chuyện quỷ thần thời ấy.
Ngày
kia, Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền dọn yến đãi các vị thần tiên, uống rượu Huỳnh
tương, ca bài tiên nhạc. Trong lúc ăn yến, Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng:
“Trẫm cầm quyền sửa máy âm dương, định cơ tạo hóa, trên thời trị các vị thần
tiên, dưới trị cả thảy nhân vật, đáng lẽ quyền trẫm lớn hơn Tây phương Phật tổ
mới phải, sao còn thuộc về Thần đạo, chưa thành Phật đạo, như vậy thời trẫm mệt
nhọc mà hỡi còn thấp, Phật thanh nhàn mà đặng phẩm cao! E chưa công bình cho
lắm?”. Các vị thần tiên tâu rằng: “Phật Thích Ca tu đã chín đời, Bệ hạ tu có
bảy đời. Vả lại thần còn có vợ con; sao cũng phải nhường Phật đạo, như Bệ hạ
muốn thành Phật đạo cũng không khó, phải giáng sinh[1] hai kiếp mà tu nữa, mới
thành Phật đạo.”
Khi ấy
Ngọc Hoàng Thượng Đế nghe tâu liền thở ra, có ý muốn hóa thân mà tu hai kiếp
nữa. Xảy thấy hào quang chiếu ngay trước mặt, mùi thơm bay khắp cả mình. Liền
phán hỏi chư thần rằng: “Vật chi trước mặt, hào quang sáng chói, bay mùi thơm
ngát dị thường?”. Các thiên quân tâu rằng: “Chẳng phải vật chi lạ, thiệt tại
phương nam cung tốn, nhà ông Lưu thiên quân ở ngoại càn khôn, có trồng cây
Quỳnh hoa, gọi là Tiếp Thiện Thọ[2] cây ấy có bảy món bửu bối nên chiếu hào
quang”. Ngọc Hoàng Thượng Đế nghe tâu liền truyền chỉ đòi Nam phương Hỏa đức
tinh quân vào đền, mà phán rằng: “Khanh đến nhà Lưu thiên quân xin bứng cây
Quỳnh hoa về đền Thông minh mà trồng”. Hỏa đức tinh quân tạ ơn rồi đi qua cung
tốn.
Nói về
Lưu thiên quân đang ngồi trong vương phủ, thấy Hỏa đức tinh quân đến, Lưu thiên
quân nghinh tiếp vào phủ hỏi rằng: “Chẳng hay thiên sứ phụng chỉ, đến dạy điều
chi?”. Hỏa đức tinh quân nói: “Thượng Đế đương đãi yến tại đền Thông minh, xảy
thấy quý trạch[3] bửu thọ[4] chiếu bảy sắc hào quang, nên Bệ hạ khen lắm,
truyền chỉ xin Thiên quân cho bứng cây ấy về trồng trước cửa đền, cho các vị
thần tiên biết vật quý”. Lưu thiên quân nói: “Thánh thượng truyền chỉ, lẽ nào
tôi dám chẳng tuân? Song cây ấy bấy lâu có bảy sắc hào quang thường nhóm tại
trên ngọn, nếu bứng động rễ, thỉ bảy sắc hào quang ấy phải tan, lại e không trỗ
bông ra trái nữa. Chắc là dùng không đặng mà mất giống linh uổng lắm chăng? Xin
thiên sứ về tâu như vậy”.
Khi ấy
Hỏa đức tinh quân về tâu lại vân vân. Ngọc Hoàng Thượng Đế nổi giận phán rằng:
“Trẫm là chúa ba cõi, mà không đặng vật báu như Lưu thiên quân!”. Liền phán hỏi
chư thần rằng: “Chẳng hay ai đặng hưởng trái Quỳnh hoa ấy?”. Các thiên thần tâu
rằng: “Trái ấy trừ ra con cháu Lưu thiên quân đặng hưởng mà thôi”. Ngọc Hoàng
Thượng Đế than rằng: “Phải chi làm con cháu Lưu thiên quân thì đặng hưởng vật
báu!”. Các thiên thần kinh hãi mà rằng: “Bệ hạ đã truyền chỉ như vậy, thì phải
đầu thai?”. Nếu quả nhân giáng sinh, biết ai kế vị?”. Các thiên thần tâu rằng:
“Xin bệ hạ để lại hai hồn, xuất ra một hồn mà đi hóa thân thì tiện lắm”. Ngọc
Hoàng Thượng Đế nghe tâu còn dùng dằng, các thiên thần tâu: “Thiên tử bất hí
ngôn[5], không lẽ quên lời thất tín. Xin Bệ hạ truyền chỉ cho mau?”. Ngọc Hoàng
Thượng Đế phán rằng: “Trẫm đành chiết một hồn đi hóa thân, song chẳng biết
chừng nào trở lại?”. Các thiên thần tâu rằng: “Xin Bệ hạ đừng lo, miễn là tu
hành, sau cũng thành như cũ”. Ngọc Hoàng Thượng Đế phải chiết ra một hồn, các
thiên thần bảo đi giáng sinh.
Nói về
Lưu thiên quân và vợ là Hồng Liên công chúa đồng ngoạn kiểng ngoài vườn hoa,
xảy thấy hào quang chiếu xuống, có bốn ông Thiên vương bưng một cái mâm vàng,
trong mâm có một người con nít ngồi ngay thẳng, dưới có chín con rồng xanh nưng
đỡ, bay thẳng xuống gần tới vườn hoa. Lưu thiên quân lấy làm lạ, chắc là người
quý giáng sinh, bảo vợ thắp hương làm lễ, hai vợ chồng quỳ lạy, hào quang bay
gần tới gần, nhập vào bụng Hồng Liên công chúa. Lưu thiên quân mừng rỡ lạy
thinh không. Từ ấy Hồng Liên công chúa thọ thai liền nói cho chồng hay. Lưu
thiên quân mừng quá nói rằng: “Chắc là sinh quý tử!”
Ngày
tháng thoi đưa, không bao lâu đã tới kỳ mãn nguyệt, ngày mùng chín tháng chín,
mùi hương thơm ngát cả nhà, Hồng Liên công chúa sinh đặng một con trai, thời
mây kéo mịt trời, đưa bàn tay không thấy. Lưu thiên quân mừng có điềm lạ, đặt
tên con là Trường Sinh.
Đến
khi Lưu Trường Sinh trộng rồi, hỏi cha mẹ rằng: “Chẳng hay nhà mình có vật chi
báu?”. Lưu thiên quân nói: “Nhà mình có cây Tiếp Thiên, hào quang sáng giới,
nồng nực mùi hương, có bảy sắc báu. Năm trước Ngọc đế muốn lắm, có sai sứ đến
xin mà cha không cho; ấy là vật báu trong trời đất”. Lưu Trường Sinh mừng rỡ,
ngày nào cũng đem hương đèn ra gốc cây mà cúng lạy. Nguyên có bảy vị phật ở tại
cây ấy, là: Đa Bửu như lai, Cữu Thẳng như lai, Diệu Sắc như lai, Quang Thạnh
như lai, Ly Bố quả như lai, Cam Lộ Vương như lai, Vô Lượng Thọ như lai; gọi là
Thất bửu như lai; hằng ở trên cây ấy. Bởi cớ ấy nên có hào quang bảy sắc. Bảy
vị như lai thấy Ngọc đế ân cần cúng tế, càng không dám hưởng nên thương nghị
với nhau, đến Tam Thanh điện[6] mà hỏi.
Hôm
sau Lưu Trường Sinh vào vườn cúng nữa, thấy lá cây Tiếp Thiên đã héo, không còn
một chút hào quang, Lưu Trường Sinh kinh hãi, ngó một hồi lâu rồi nói rằng:
“Hôm qua có hào quang, sao nay chẳng thấy, chắc cũng có cớ chi, mai coi lại
thử”. Nói rồi trở vào nhà.
Hôm
sau Lưu Trường Sinh vào vườn cúng nữa, thấy lá cây Tiếp Thiên đã héo, không còn
một chút hào quang, Lưu Trường Sinh kinh hãi ngó một hồi lâu rồi nói rằng: “Hôm
qua có hào quang, sao nay chẳng thấy, chắc cũng có cơ chi, để mai coi lại thử”.
Nói rồi trở vào nhà.
Nói về
Thất bửu như lai không biết ý Ngọc đế làm sao, sớm tối ân cần cúng lạy. Nên rủ
nhau đến Tam Thanh điện hỏi thăm ba ông Tam Thanh. Thái thượng lão quân, Ngươn
Thủy, Linh Bửu đồng cười rằng: “Nếu chúng ta không cắt nghĩa, thời bảy vị không
rành. Bởi ngày kia Ngọc đế đãi yến, ngó thấy bảy sắc hào quang của các người,
không rõ vật chi nên phán hỏi. Các thiên thần tâu rằng tại Tiếp Thiên Thọ hiện
hào quang trong vườn Lưu thiên quân. Ngọc đế sai sứ xin cây ấy không đặng, Ngọc
đế phán hỏi: Ai đặng hưởng cây Quỳnh hoa?. Các thiên thần tâu rằng: Trừ con
cháu Lưu thiên quân mới hưỡng đặng. Ngọc đế mới xuất hồn đầu thai làm Lưu
Trường Sinh. Nay còn động lòng xưa mà cúng kiến các ngươi đó? Chẳng hay mấy vị
ở đó bao lâu?”. Thất bửu như lai nói: “Chúng tôi ở cây Tiếp Thiên của Lưu phủ
đã ba trăm năm dư”. Ngọc Thanh Thái Thượng than rằng: “Ngọc đế cũng vì mến bảy
ngươi mà giáng sinh, nếu ngày sau không tu niệm mà trở lại Thiên đình, thì các
ngươi cũng có tội!”. Thượng Thanh Ngươn Thủy nói: “Bảy vị phải chọn một người
hơn hết, hóa làm đạo sĩ mà khuyên Lưu Trường Sinh tu hành mà chuộc lỗi ấy mới
đặng”. Thái Thanh Linh Bửu nói: “Bây giờ muốn khuyên cho đặng Lưu Trường Sinh
tu luyện, phải làm kế như vầy: Một vị như lai hóa ra đạo sĩ đứng dưới gốc cây
Tiếp Thiên đợi Lưu Trường Sinh đến cúng, thấy cây khô chẳng chiếu hào quang
chắc là nổi giận, sao cũng nói đạo sĩ ăn cắp bửu bối, hại chết cây Tiếp Thiên
đợi rầy rạc hành hung, sẽ hóa phép thần thông cho Lưu Trường Sinh phục; chừng
đó sẽ khuyên bảo tu hành mới đặng”. Thất bửu như lai nghe đó, liền giã từ lui
ra.
Nói về
Lưu Trường Sinh, ngày thứ nhứt ra vườn thấy cây khô héo, không có hào quang,
thì trong lòng rầu rĩ. Ngày thứ nhì ra vườn thấy cây khô gần chết, tức mình
biết dường nào. Xảy thấy có một người đạo sĩ đứng sau cây Tiếp Thiên, Lưu
Trường Sinh nổi giận, bước lại kéo đạo sĩ mà nói rằng: “Ta không biết cây nầy
vì cớ nào mà chết, bửu bối không chiếu hào quang, té ra nay mới hay ngươi đã
trộm bửu bối!”. Đạo sĩ không nói một tiếng, cứ cười chúm chím, Lưu Trường Sinh
nổi giận, kéo đạo sĩ khỏi vườn, đem tới nhà khách tra vấn. Đạo sĩ cũng cười
chúm chím mà thôi. Lưu Trường Sinh tức mình lấy gậy đập đại, đạo sĩ không kêu
la tự nhiên cây gậy gãy, lấy gươm chém cũng gãy gươm. Đạo sĩ hóa một đạo hào
quang bay lên nửa lừng. Lưu Trường Sinh kinh hãi, liền quỳ lạy thinh không mà
nói rằng: “Tôi không biết tiên ông, nên mới lầm mà xúc phạm, xin xá tội cho
tôi”. Đạo sĩ nói: “Ta là bảy báu trong cây ấy, bấy lâu ở trong vườn ngươi nên
có hào quang đó”. Lưu Trường Sinh hỏi: “Vì cớ nào dựa cây ấy mà có hào quang?”.
Đạo sĩ nói: “Bảy anh em ta thấy trên thiên cung không có bửu bối, nên dựa cây
mà khoe khoan; nay anh em ta không dựa cây này nữa”. Lưu Trường Sinh hỏi: “Nay
cớ nào mà bỏ cây nầy, muốn đi đâu nữa?”. Đạo sĩ nói: “Khi trước Thiên cung
không có bửu bối, nên anh em ta hiện hào quang sáng chói. Bây giờ Thiên cung
nhiều bửu bối, thì thần thông hào quang của chúng ta chẳng ra chi, nên muốn đi
cho rảnh”. Lưu Trường Sinh nói: “Như trên Thiên cung nhiều báu, xin dắt tôi
theo”. Đạo sĩ nói: “Muốn lên Thiên cung, thì phải bỏ sự ân ái, nếu còn tánh
tham thời khó đi lắm!”. Lưu Trường Sinh nói: “Nếu các ông không bỏ tôi, thi tôi
lạy từ giã cha mẹ rồi đi theo”. Đạo sĩ nói đặng.
Khi ấy
Lưu Trường Sinh vào từ biệt cha mẹ, xin theo thần tiên mà lên Thiên cung. Lưu
thiên quân và Hồng Liên công chúa không chịu cho đi, xảy thấy trời nổi mây đen
kéo tới, nổi một trận gió, đem Lưu Trường Sinh bay mất. Mây đen tan rồi, hai vợ
chồng Lưu thiên quân kiếm con không đặng than khóc với nhau một hồi.
Nói về
Thất bửu như lai bồng Lưu Trường Sinh khỏi cung, rồi đem lên điện Tam Thanh, ra
mắt và thuật chuyện cho ba ông Tam Thanh hay. Tam Thanh bước ra ngoài, thấy Lưu
Trường Sinh làm lễ. Tam Thanh mời dậy, rồi cho ngồi mà hỏi rằng: “Người có biết
chúng tôi là ai chăng?”. Lưu Trường Sinh thưa rằng: “Tôi thuở nay chưa biết ba
vị tiên trưởng[7]”. Tam Thanh cười rằng: “Người biết mình kiếp trước là ai
chăng?”. Lưu Trường Sinh thưa rằng: “Tôi thiệt không biết, xin các vị tiên
trưởng dạy cho rành! May tôi đặng thành tiên, thì trọn đời cám đức”. Tam Thanh
nói: “Người hãy ra nhà sau, coi mặt vào kiếng lớn, thì biết kiếp trước là ai”.
Khi ấy
Lưu Trường Sinh y lời, ra nhà sau coi kiếng, thấy là hình Ngọc đế trong kiếng
rõ ràng, trong lòng kinh hãi. Liền ra nói với Tam Thanh rằng: “Tôi soi kiếng
thấy hình Ngọc đế; hay là kiếp trước tôi là Ngọc đế chăng?”. Tam Thanh nói
phải. Lưu Trường Sinh nói: “Nếu kiếp trước tôi là Ngọc đế sao lại đầu thai cõi
ngoài?”. Tam Thanh nói: “Người là một cái hồn trong mình Ngọc đế, bởi kiếp
trước thấy cây Tiếp Thiên của Lưu thiên quân chiếu hào quang liền động lòng
tham, mới đầu thai xuống mà hưởng cây ấy”. Lưu Trường Sinh hỏi: “Làm sao đặng
trở về thân trước?”. Tam Thanh nói: “Cũng không khó chi, muốn trở về thân
trước, thì phải tu hành Chân chánh mới đặng như xưa”. Lưu Trường Sinh nói: “Tôi
cũng ở cõi tiên với cha mẹ, chẳng hay đến đâu mà tu hành?”. Tam Thanh nói: “Ở cõi
tiên không có chi khổ sao gọi là tu? Muốn tu thì phải đến cõi trần mà tu, đến
thành thì trở về đền cũ”. Lưu Trường Sinh nói: “Tôi là con thần tiên, xuống
phàm trần sao đặng?”. Tam Thanh nói: “Ngươi bằng lòng chịu khó tu hành, thì có
chỗ tu hành tốt lắm, bởi trung giái có hòn núi Bồng Lai, là hòn núi có danh thứ
nhứt. Để chúng tôi làm phép đưa người xuống đó mà tu”. Lưu Trường Sinh nói:
“Biết có ai nuôi dưỡng hay không?”. Tam Thanh nói: “Đói ăn trái tòng xanh, khát
uống nước suối”. Lưu Trường Sinh nói: “Miễn tu hành hườn lại thân trước, thì
tôi tình nguyện nghe lời”. Tam Thanh lấy một bông như ý trong tay áo ra, bảo
Lưu Trường Sinh nhắm mắt lại, rồi lấy bông như ý đánh Lưu Trường Sinh một cái,
té xuống Bồng Lai.
HỒI
THỨ NHÌ
Nước
Kỳ Xà chúa tôi săn bắn
Nói về
nước Kỳ Xà đương lúc thạnh trị, vua Kỳ Xà truyền chỉ: Quan văn là Trương Minh,
Huỳnh Thao, quan võ là Lưu Phi Hổ, Trịnh Chánh, đồng dẫn quân Hổ bôn[8] hộ giá
đi săn bắn tại núi Bồng Lai. Các quan văn võ lãnh chỉ, đồng sửa sang cung tên
khí giái, tùy giá[9] đến non Bồng.
Khi ấy
Lưu Trường Sinh tu tại núi Bồng Lai đã hai mươi năm. Ngày kia đương ngồi trước
núi than rằng: “Từ khi Tam Thanh xô mình xuống núi nầy, thì che cỏ mà tu hành,
đói ăn trái tòng, khát uống nước suối. Nay đã hai mươi năm song chưa đặng tiên
phong đạo cốt[10] biết ngày nào trở lại cung xưa!”. Nói rồi trở vào lều cỏ mà
ngồi. Xảy thấy loài thú rùng rùng chạy tới đồng quỳ trước lều tranh, và kêu la
cúi đầu như lạy. Lưu Trường Sinh biết chúng nó bị săn bắn nên đến nương chốn
mình mà tỵ nạn, liền hỏi rằng: “Ta coi ý các ngươi, có khi mắc nạn cầu cứu ta
thì phải?”. Các thú đều gật đầu. Lưu Trường Sinh nói: “Như vậy thì chạy ra phía
sau mà trốn!”. Các thú nghe nói mừng rỡ, chun vào am chạy thẳng ra phía sau.
Giây
phút Thành An vương[11] kéo quân Hổ bôn đến am phán hỏi rằng: “Người ngồi đây
có thấy loài thú chạy vào am chăng?”. Lưu Trường Sinh ngồi làm thinh chẳng nói.
Thành An vương phán hỏi nữa, Lưu Trường Sinh cũng làm thinh. Thành An vương nổi
giận, truyền quân chặt hai tay hai Chân, song chẳng sợ chút nào, ngồi cười chúm
chím. Thành An vương giận quá, liền phán hỏi rằng: “Ngươi cười ta chém đầu
ngươi không đặng đó chăng?”. Tức thì truyền quân rằng: “Các ngươi chém đạo sĩ
đó, rồi phân thây cho mau!”. Quân Hổ bôn vưng lịnh ra tay, vừa chém Trường Sinh
rồi, thì thiên ám địa hôn, giây phút sau sáng ra, thấy Lưu Trường Sinh thân thể
hườn nguyên như cũ.
Khi ấy
Thành An vương biết lỗi, nửa sợ nửa mừng; sợ là sợ xúc phạm thần tiên, mừng là
mừng gặp người có phép; liền chắp tay lạy bạch rằng: “Quả nhân là người phàm
mắt thịt, không biết đứng thiên tiên, xin từ bi xá tội. Quả nhân thỉnh thiên
tiên về trào đặng từ giã bá quan, giao xong việc nước, trẫm sẽ theo lên núi tu
hành”. Lưu Trường Sinh nói: “Bệ hạ cũng như tiên còn tu hành làm chi nữa?”.
Thành An vương lạy lục năn nỉ hoài. Lưu Trường Sinh thấy khẩn cầu quá, liền
ngâm thơ rằng:
“Hai
mươi năm chẵn ở non nầy,
Nước
suối đỡ lòng với trái cây.
Bệ hạ
cốt tiên nay đã gặp,
Hết
lòng sát phạt kể từ đây”.
Thành
An vương nghe thơ, liền quỳ lạy bạch rằng: “Cứ theo câu thơ này, quả nhân cũng
là tiên phải đọa, xin đại tiên lấy lòng liên mẫn[12] độ quả nhân phản bổn hườn
nguyên[13] xin trở lại trào mà dạy bảo trẫm?”. Lưu Trường Sinh nói: “Bệ hạ đã
hồi tâm học đạo, dã nhân[14] cũng bằng lòng về trào”. Thành An vương mừng rỡ tạ
ơn, chúa tôi đồng rước Lưu Trường Sinh về đền.
Khi ấy
Thành An vương truyền bá quan văn võ lui hết. Rồi thỉnh Lưu Trường Sinh vào
cung Tịnh Lạc, dọn tiệc chay đãi đằng. Lưu Trường Sinh cũng nhận lễ.
Nói về
chánh cung hoàng hậu là Ngọc Đường công chúa nước khác, này nghe nói chồng rước
đặng thiên tiên vào cung Tịnh Lạc, liền đến đó lạy mừng. Chẳng ngờ ngó thấy Lưu
Trường Sinh xinh tốt khác thường, động lòng yêu mến mà nói lộ như vầy: “Thiên
tiên cốt cách xinh tốt, nếu thiếp ngó thấy đặng mà cảm động, ngày sau sinh thái
tử cho giống như tạc, thiếp vui lòng biết chừng nào!”. Lưu Trường Sinh nghe nói
lạ lùng, lòng càng kinh hãi liền ngâm thơ rằng:
“Hai
mươi năm lẻ quyết tu hành,
Lánh
việc mây mưa với én anh.
Khuyên
chớ ước ao lời trái lẽ,
Họa là
chờ đợi kiếp lai sinh”
Khi ấy
Hộ pháp ở trên mây, nghe Lưu Trường Sinh ngâm thơ như vậy, biết chưa dứt lòng
phàm, liền biến ra một cung nga, vào cung hỏi Lưu Trường Sinh rằng: “Ông biết
tôi là ai chăng?”. Lưu Trường Sinh nói: “Ngươi là cung nữ chứ ai?”. Hộ pháp nói:
“Tôi là Hộ Pháp, hóa hình cung nữ đến đây. Tôi mới ở trên mây, nghe ông ngâm
thơ thề nguyền với Ngọc Đường công chúa rằng: Họa là chờ đợi kiếp lai sinh! Bởi
người tu hành chẳng nên nói chơi, thề thì mắc thắt thì rối, ông phải đọa luân
hồi, đầu thai kết tóc với Ngọc Đường công chúa mà trả nợ câu thơ, rồi tu lại
mới thành chánh quả”. Lưu Trường Sinh nghe nói khóc ròng. Hộ Pháp biến mất. Từ
đấy Lưu Trường Sinh khóc hoài phát bịnh nội bảy ngày bỏ mình. Thành An vương
thảm thương chôn cất trọng thể, tán tại núi Tử Kim”. Còn hoàng hậu Ngọc Đường
thấy Lưu Trường Sinh bỏ mình cũng sầu thảm sinh bịnh, không bao lâu hoàng hậu
băng hà. Thành An vương than khóc, cũng chôn hoàng hậu tại núi Tử Kim. Rồi lập
Đặng quý phi làm hoàng hậu.
Khi ấy
hồn Lưu Trường sinh hóa ra hào quang nhập vào bụng Đặng hoàng hậu, đến năm giáp
ngũ, ngày mười tám tháng mười, giờ ngọ, Đặng hoàng hậu sinh đặng một trai, hình
dung cũng xinh tốt như Lưu Trường Sinh. Thành An vương mừng rỡ đặt tên là Huyền
Minh thái tử.
Còn
Ngọc Đường công chúa đầu thai cho Lý phú gia đến khi sinh thì mùi hương thơm cả
nhà, Lý phú gia lấy cớ đặt tên là Hương Nương.
Nói về
Huyền Minh thái tử mười ba tuổi. Xảy có nước Phiên sai sứ đến nước Kỳ Xà, dưng
một cái trống bằng đồng mà tâu rằng: “Lang vương tôi là Ca Lý Thiên Nhi, sai
tôi dưng trống đồng, mặt day hai tấc; nếu nước nào bắn thủng trống ấy thì là
thượng bang, Lang vương tôi thường năm cống sứ; bằng bắn không thủng thì làm hạ
bang[15]phải cống sứ cho Lang vương tôi”. Thành An vương nổi giận phán rằng:
“Thuở nay Phiên quốc thường năm cống lễ cho nước trẫm, nay ý muốn làm phản, mới
sinh ra sự như vậy!”. Phán rồi ngó phía bên võ mà hỏi rằng: “Ai có sức mạnh bắn
thủng cái trống nầy thì trẫm gia phong nhất phẩm!”. Trấn quốc tướng quân Lưu
Phi Hổ quỳ tâu rằng: “Sức tôi bắn thủng cái trống ấy”. Thành An vương đẹp ý,
truyền nội thị rót ba chén ngự tửu thưởng Trấn quốc tướng quân. Lưu Phi Hổ tạ
ơn, rồi uống rượu. Xong rồi lấy cung sắt tên thép, chuyển thần lực bắn nhằm
trống ấy kêu một tiếng vang tai. Lại rút tên ra coi lại, lũng có năm phân, lấy
làm hổ thẹn, liền quỳ chịu tội trước sân chầu.
Khi ấy
Huyền Minh thái tử tâu rằng: “Sức con bắn thủng cái trống ấy”. Thành An vương
châu mày phán rằng: “Rất đỗi Trấn quốc tướng quân sức mạnh ngàn cân, bắn còn
găm có nửa tấc. Huống chi con tuổi còn thơ ấu, lẽ nào bắn thấu cái trống nầy?”.
Huyền Minh thái tử tâu rằng: “Tại sức mạnh mà thôi, luận chi nhỏ lớn? Xin phụ
vương đừng lo sự ấy, để con bắn thử cho mà coi”. Thành An vương mừng quá,
truyền thái tử bắn thủ coi thể nào.
Khi ấy
Huyền Minh thái tử lấy cung tên bước ra sân chầu hỏi sứ rằng: “Nếu ta bắn thủng
cái trống ấy, thì ngươi tính làm sao?”. Phiên sứ nói: “Nếu bắn thủng được thì
nước tôi cống sứ luôn, năm nào cũng vậy, bằng như hồi nảy, thì thường năm phải
cống sứ lại cho nước tôi”. Huyền Minh thái tử nạt rằng: “Ta bắn trống này lủng
rồi, thì đầu ngươi sa xuống đât”. Nói rồi truyền quan day giá trống lại phía
nguyên, Phiên sứ cưới chúm chím (Có ý cười làm phách, phải chi để phía có bắn
đặng năm phân bắn tùng theo dấu cũ thì có một tấc rưỡi mau lủng hơn).
Còn
Huyền Minh thái tử chuyển thần lực bắn một mũi tên, tên lọt vào trống, ai nấy
đều khen hay. Thành An vương truyền quân chém sứ. Huyền Minh tâu xin cho nó.
Rồi kêu Phiên sứ mà mắng rằng: “Đáng lẽ thì chém cái đầu lừa cho rảnh. Song lấy
lòng nhân tha ngươi về nước, nói với Phiên vương rằng: Cứ thường năm cống sứ
luôn luôn, bằng thất lễ thì ta chinh phạt!”. Phiên sứ tạ ơn lui về. Thành An
vương truyền dọn tiệc yến quần thần, các quan đều dưng rượu hạ công[16]Thái tử.
HỒI THỨ BA
Thành An vương thiện vị[17]cho con
Nói về chúa Phiên là Ca Lý Thiên Nhi đang lâm
triều bá quan văn võ chầu chực. Xảy thấy sứ về tâu rằng: “Thần vâng chỉ đem
trống dâng cho nước Kỳ Xà, quan võ bắn tên ghim có năm phân, còn Thái tử bắn
thủng được trống. Vua Kỳ Xà truyền chém sứ. Thái tử xin và hăm rằng: Nếu chúa
ngươi không cống sứ thường năm thì ta hưng binh chinh phạt. Và nói xúc phạm”.
Ca Lý Thiên Nhi nghe tâu nổi giận phán rằng: “Phép nào hăm chém sứ, thiệt khi
dễ trẫm quá chừng?”. Lại cả gan muốn hưng binh vấn tội nữa! Vậy phải ra tay
trước cho chúng nó biết chừng; không lẽ thường năm cống lễ? Nay trẫm phong Mao
Đáp Hải làm nguyên soái, Thuận Thanh làm phó tướng[18]. Ngột Truật làm tiên
phuông, đồng đem binh năm vạn qua đánh nước Kỳ Xà, thắng trận trẫm sẽ gia phong
cực phẩm”. Ba tướng ấy đồng lãnh chức tạ ơn. Về lo điểm binh, sửa sang qua đánh
nước Kỳ Xà.
Nói về Thành An vương từ khi thấy con có sức mạnh
bắn thủng trống bằng đồng, thì vui lòng lắm, lại nghĩ thầm rằng: “Mình đã sáu
chục tuổi rồi, cũng nên thiện vị cho con; vì thái tử văn võ kiêm toàn, tài trí
đệ nhứt”. Nghĩ rồi đến khi lâm triều, truyền chỉ cho bá quan hay. Bá quan cũng
hiệp ý, Thành An vương truyền dọn yến trọng thể, mà đãi quần thần, và nhường
ngôi cho thái tử. Thái tử Huyền Minh tuy mới mười ba tuổi, song không dám chối
từ, vâng chỉ lãnh ấn tức vị, cải hiệu là Định Đại Nguyên niên. Liền tôn Thành
An vương làm Thái Thượng hoàng, tôn mẹ làm thái hậu, gia phong bá quan đều lên
một cấp. Bá quan tung hô tạ ơn.
Đến vua Định Đại trị vì được ba tháng, thấy sớ
quan ải ngoài dưng rằng: “Vua nước Phiên là Ca Lý Thiên Nhi, sai Mao Đáp Hải
làm nguyên soái cầm binh năm vạn qua xâm loạn, tôi binh ít nên cự không lại,
phải bế thành mà thủ, xin Bệ hạ cho cứu binh”. Định Đại xem sớ rồi, truyền chỉ
Bảo giá tướng quân Sỹ Năng làm đại nguyên soái, phong Mã Mạnh Minh là tiên
phuông, và Sỹ Cấp làm phó soái, đồng dẫn năm vạn binh đi bình Phiên. Ba người
tạ ơn dẫn binh ra đến ải đầu, tổng binh sở tại khai thành nghinh tiếp; và dọn
tiệc khao binh, đãi tướng, vân vân.
Rạng ngày Ngột Truật khêu chiến. Nguyên soái Sỹ
Năng sai tiên phuông ra trận. Mã Mạnh Minh vưng lịnh, dẫn binh ra trận hỏi
rằng: “Ngươi là tiểu bang, sao vô cớ dám hưng binh xâm loạn?”. Ngột Truật nói:
“Chúa ta binh ròng tướng mạnh, hùng cứ một phương, sai sứ đem trống bằng đồng
mà thử sức nước ngươi mạnh yếu. Té ra cả ngàn võ tướng gân cốt liệt nhược, bắn
không lủng cái trống bằng đồng, Nhờ có một mình thái tử sức mạnh. Đáng lẽ thì
biết thẹn đãi sứ yến tiệc, lấy lời hòa nhã mà đưa về, thì hai nước hãy còn hòa hảo.
Lẽ nào lại hăm chém sứ, và nói nhục chúa ta? Sức mạnh bao nhiêu mà hưng binh
vấn tội? Bởi có ấy nên chúa ta sai cử binh qua cho biết tài cao thấp. Ngươi còn
chưa biết lỗi, muốn ra trận mà nạp mình sao?”. Mã Mạnh Minh nổi giận nạt rằng:
“Giá tiểu bang sức mạnh bao nhiêu, mà dám kình với đại quốc? Đã nói: Nếu nước
ta có ai bắn thủng trống bằng đồng, thì chúa ngươi thường năm cống lễ, nay nuốt
lời thất tín, dám xâm loạn đại bang, ấy là đem trứng mà chọi đá; sau chớ ăn
năng?”. Nói rồi giục ngựa tới đâm Ngột Truật một giáo. Ngột Truật đưa siêu đao
ra đỡ, hai người đại chiến sáu chục hiệp. Mã Mạnh Minh biết sức cự không lại,
quày ngựa chạy vào ải thọ tội. Nguyên soái Sỹ Năng nói: “Việc binh thắng bại lẽ
thường, mai bổn soái sẽ ra trận”.
Rạng ngày nguyên soái Sỹ Năng kéo binh ra trước
ải. Bên kia Mao Đáp Hải cũng dẫn binh ra nói rằng: “Hôm qua tiên phuông ngươi
bị tiên phuông ta đuổi nà, may phước mới khỏi tử trận, nay ngươi đem thủ cấp mà
nạp cho bổn soái hay sao?”. Nguyên soái Sỹ Năng giận quá, không thèm nói lại,
liền vớt một siêu đao, Mao Đáp Hải đưa song chùy ra đỡ, rồi đánh lại. Hai bên
binh ó vang trời, gióng trống dậy đất.
Khi ấy nguyên soái Sỹ Năng ráng sức bình sinh,
đánh với Mao Đáp Hải từ giờ thìn tới giờ mùi, không biết mấy trăm hiệp, mồ hôi
ra đã đầm mình. Thấy Mao Đáp Hải chưa mệt, biết thế cự không lại, nên bại tẩu
vào cửa ải bế thành. (Giống tiên phuông hôm qua).
Đêm ấy nguyên soái Sỹ Năng, viết sớ sai quân đem
về nước viện binh.
Khi ấy vua Đại Định xem sớ nổi giận phán rằng:
“Tiểu bang vô lễ, trẫm quyết ngự giá thân chinh”. Bá quan kinh hãi đồng tâu
rằng: “Xin Bệ hạ bớt trận lôi đình, sự ngự giá thân chinh chẳng dễ đâu, nở nào
đem mình rồng ra chốn chiến trường nguy hiểm? Đã làm vậy thì chớ, lại e tiểu
bang khi dễ rằng: Bởi Đại quốc hết tướng, nên đến nỗi ngự giá thân chinh”. Định
Đại vương phán rằng: “Nếu trẫm không thân chinh, thì làm sao mà dẹp loạn, bởi
trong trào hết tướng giỏi rồi?”. Bá quan tâu rằng: “Tuy trong trào hết tướng
đại tài, chớ cả nước cũng còn nhiều người giỏi. Xin bệ hạ treo bảng chiêu hiền,
lo chi không có kẻ đại tài giúp nước?”. Định Đại y tấu truyền treo bảng chiêu
hiền.
HỒI THỨ TƯ
Diệu Lạc[19]giả hình giúp chúa
Nói về ông Diệu Lạc thiên tôn ở trên mây thấy
Ngọc Đế làm vua nước Kỳ Xà, e sa đắm hồng trần khoái lạc không tu hành trở lại
cảnh tiên. Lại thêm nước loàn giặc dữ, lòng vua lo việc cầu hiền, cũng nên
xuống cứu giá”. Nghĩ rồi liền biến ra thầy đạo sĩ, xuống lầu Ngũ phụng lãnh
bảng chiêu hiền.
Khi ấy quan giữ bảng vào tâu rằng: “Có đạo sĩ
lãnh bảng”. Vua Định Đại truyền chỉ đòi đạo sỹ vào đền, phán hỏi rằng: “Khanh
có tài năng mới dám lãnh bảng văn của trẫm, chẳng hay khanh dùng phương chi mà
dẹp Phiên binh?”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Bần đạo có học phép tiên, nên
biết kêu mưa hú gió, làm cho đá chạy cát bay, phép biến hóa vô cùng lo chi dẹp
giặc Phiên chẳng đặng? Nếu Bệ hạ dụng việc binh cơ, thì tôi dẹp giặc Phiên như
gió thổi rạp cỏ, nội một trận cũng đủ thành công”. Vua Định Đại mừng rỡ phán
hỏi rằng: : “Chẳng hay khanh dụng bao nhiêu binh tướng?”. Diệu Lạc thiên tôn
tâu rằng: “Bần đạo một mình cũng đủ, phải dùng binh tướng làm chi”. Vua Định
Đại phán hỏi rằng: “Binh Phiên năm vạn, chiến tướng mấy mươi, một mình khanh
làm sao mà cự lại?. Trẫm e một mình không sánh cả vạn, ít phải thua đông
chăng?”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Cắt cổ gà lựa phải dao phay, tôi chẳng
dụng phép nhiệm làm chi, dùng tiểu thuật[20] cũng đủ trừ giặc ấy, xin Bệ hạ
đừng lo mà nhọc lòng rồng, bởi tôi dùng cây cỏ làm binh, gió mưa làm tướng, đá
cát làm khí giái, đánh phép nội một giờ, nên đem binh theo chẳng những vô ích
mà thôi, lại e bị ngộ tử[21] trong cơn hỗn chiến, nên tôi chẳng dụng tướng
binh”. Vua Định Đại phán rằng: “Như vậy thì khanh ra ải Giao Kiếm, truyền chỉ
cho Sỹ Năng nguyên soái hay, rồi khanh sẽ đơn thân hỗn chiến”. Diệu Lạc thiên
tôn phụng chỉ, từ tạ ra Giao Kiếm quan.
Nói về Sỹ Năng nguyên soái từ khi ra Giao Kiếm
quan là ải địa đầu, đánh không lại Phiên tướng, cứ thủ thành mà đợi cứu binh.
Ngày kia thấy đạo sĩ bay vào trướng tướng, nguyên
soái và chư tướng kinh hãi. Diệu Lạc thiên tôn cười rằng: “Bần đạo phụng chỉ đi
tiếp ứng, các vị đừng hãi kinh. Bởi tướng Phiên võ nghệ cao cường, đấu lực
không lại. Bần đạo phải dùng thần thông mới đặng. Vậy thì các vị thủ thành, các
vị chẳng nên ra trận, e tuôn nhằm phép mà khó lòng”. Sỹ Năng nguyên soái và các
tướng nghe nói cũng hồ nghi, không dám cãi lịnh. Liền dọn tiệc đãi đằng.
Bửa sau Phiên tướng Mao Đáp Hải nghe quân thám
thính về báo rằng: “Có một thầy đạo sĩ đến ải Giao Kiếm, các tướng nước Kỳ Xà
dọn tiệc đãi cách trọng thể, không rõ có cớ chi, tôi phải báo tin”. Mao Đáp Hải
cười rằng: “Mấy bửa rày chúng nó bế thành, không dám ra trận, chắc là thỉnh cứu
binh. Nay có đạo sĩ đến, quả là quốc sư đó e có phép thần thông. Song binh quý
thần tốc; thừa dịp nó mới tới mình đánh cho mau chắc là toàn thắng. Vậy bao
nhiêu binh tướng đồng kéo tới ải một lần, dầu đạo sĩ thần thông bực nào trở tay
cũng không kịp”. Các binh tướng vưng lịnh đồng kéo tới Giao Kiếm quan khiêu
chiến.
Khi ấy quân vào báo lại. Diệu Lạc thiên tôn cười
rằng: “Tiểu bang vô lễ khi không mà dám hưng binh phạm thượng, làm lê dân đồ
thán, tội chết đã ưng, xin các vị lên mặt thành mà xem tôi trị tội chúng nó!”.
Nói rồi bõ tóc xả, cầm gươm thất tinh[22] và bưng một chung nước lạnh; ra trước
cửa ải phun nước rồi niệm chú. Tức thời mây kéo mịch mù, tối tăm trời đất. Cát
bay vào mắt binh tướng Phiên ngã lăn, không biết ngõ nào mà chạy. Kế đá ở trên
không rớt xuống năm vạn binh chết hết bốn muôn.
Giây phút gió lặn mây tan, trời đất minh bạch,
tướng binh Kỳ Xà thấy quân Phiên còn cả van, liến dẫn binh tướng ra, giết quân
tướng Phiên không còn sót một mạng.
Có thơ khen rằng:
“Cát bay mù mịt đá lăn chiêng,
Quân giặc năm muôn té ngửa nghiên.
Binh tướng Kỳ Xà ra giết nguội,
Thây phơi tướng sĩ lớn hơn thuyền”
Khi ấy các tướng lại dao rồi, đồng kéo vào
ải,Diệu Lạc thiên tôn truyền ban sư.
Đoạn về đến trào chầu vua, chúc tụng xong xả, tâu
việc đắc thắng ban sư. Vua Định Đại mừng rỡ phán khen rằng: “Nếu không nhờ
khanh, thì quả nhân chẳng còn xã tắc. Nay trẩm phong khanh làm chức quốc sư,
nhứt phẩm đương trào, mà đền công hạng mã[23]”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng:
“Tôi là người tu hành, chẳng tham tước lộc, chẳng qua thấy Phiên quốc háo
sát[24] hưng binh vô cớ làm hại lê dân, nên tôi dẹp đảng bạo tàn mà cứu muôn
dân trong nước lửa. Nay yên rồi, tôi xin từ giã về núi Chung Nam”. Vua Định Đại
phán rằng: “Như khanh không khứng làm tôi trẫm, trẫm xin dưng vàng bạc châu báu
mà tạ công ơn. Xin khanh đừng từ chối!”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Tôi là
người tu núi, khát uống nước suối, đói dụng trái cây, dầu lãnh bạc vàng châu
báu cũng không ích gì. Xin Bệ hạ để của ấy mà chẩn tế cho dân nghèo”. Vua Định
Đại phán rằng: “Thầy đã từ tước lộc, cũng không lãnh ngọc vàng, trẫm an lòng
sao đặng! Vậy trong hai điều ấy, thầy phải nhận một điều, thì trẫm mới đẹp ý”.
Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Sự ban thưởng ngọc vàng, tôi nhứt định không dám
tuân chỉ, còn như sự làm tôi gấp bây giờ cũng chưa tiện, tôi xin về núi Chung
Nam, hầu gia sư[25] mười năm, rồi sẽ đến đây lãnh chức”. Vua Định Đại y tấu,
truyền bá quan văn võ đưa đạo sĩ về núi Chung Nam.
Qua năm thứ ba vua Định Đại truyền tuyển mỹ nữ,
chọn đặng Lý Hương Nương phong làm hoàng hậu. Ấy là lời nói nên nợ! Cái duyên
lai sinh! Từ đấy đến sau sinh đặng thái tử và công chúa.
Đến mười năm sau nữa, Diệu Lạc thiên tôn nghĩ
rằng: “Ngọc đế giáng sinh lên ngôi báu, thái bình đã mười năm e sa đắm cõi
trần, khó về cảnh cũ. Khi trước không ép vua Định Đại tu hành, vì chưa sinh
thái tử, nay thái tử đã bảy tuổi cũng nên xuống độ ngài về cung tiên”. Nghĩ rồi
liền hóa ra một thầy đạo sĩ khác, đi xuống nước Kỳ Xà.
Khi ấy vua Định Đại đương lâm triều, bá quan
đương chầu chực, xảy thấy đạo sĩ lạ mặt bước đến sân chầu. Vua Định Đại phán
rằng: “Khanh đến trẫm có chuyện chi?”. Diệu Lạc thiên tôn ngâm thơ rằng:
“Thủy hoàng mộ đạo cũng lương khương,
Hớn võ không ai chỉ dẫn đường.
Hai chúa sẵn lòng từ thế giái,
Một điều thiếu kẻ độ tây phương.
Cốt tiên Bệ hạ còn ngôi cũ,
Phép nhiệm sơn nhân[26] lánh bụi hường[27].
Sớm nhượng ngai vàng về động báu,
Vô thường khỏi bắt đến Diêm vương”
Vua Định Đại nghe qua kinh hãi, phán hỏi rằng:
“Khanh là người chi?”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Tôi là người ở trên trời”.
Vua Định Đại phán hỏi rằng: “Khanh vì chuyện chi mà đến trẫm?”. Diệu Lạc thiên
tôn tâu rằng: “Thiệt vì Bệ hạ mới đến đây”. Vua Định Đại phán hỏi rằng: “Chẳng
hay trẫm có họa phước chi?”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Bệ hạ là tiên phải
đọa, bởi say đắm vui say ngôi báu, không hồi tâm tu hành. Nay gần mãn số, không
bao lâu sẽ mắc Diêm vương; nên bần đạo đến đây độ Bệ hạ tu hành cho thành tiên,
kẻo bị đầu thai kiếp khác”. Vua Định Đại mừng rỡ phán rằng: “Đặng như vậy thì
ơn thầy lớn lắm, xin dạy nẻo tu hành?”. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Như Bệ hạ
muốn khỏi đọa, thì hãy kính bần đạo làm thầy”. Vua Định Đại liền xuống ngai làm
lễ, Diệu Lạc thiên tôn nói: “Nay đã làm đệ tử, phải y lời ta dặn; mau nhường
ngôi cho thái tử, đi một mình vào núi mà tìm ta!”. Nói rồi bèn từ giã. Vua Định
Đại theo đưa khỏi ngọ môn rồi trở lại.
Khi ấy bá quan văn võ đồng tâu rằng: “Chuyện u
minh không chắc chi, lẽ nào bỏ ngôi trời mà vào núi!”. Vua Định Đại không y
tấu, truyền chỉ đòi thái tử vào phán rằng: “Nay trẫm quyết vào núi tu hành,
nhường ngôi báu cho đông cung tức vị, vua kỉnh tôi ngay như trước, chẳng nên
làm khổ lê dân”. Phán rồi giao ngọc ấn cho thái tử. Thái tử quỳ lại khóc than,
xin phụ vương ở lại, song vua Định Đại đã quyết chí, chẳng nhận lời can. Nội
cung hay tin ấy, đồng ra quỳ lạy năn nĩ, vua Định Đại cũng chẳng nhận lời. Liền
ban chiếu nhường ngôi cho thái tử tức vị, bá quan chúc tụng xong xã. Tân quân
xưng hiệu Khai Minh ngươn niên, tôn mẹ làm hoàng thái hâu. Vua Định Đại liền về
cung làm bài thơ từ giã vợ con như sau:
“Con nối ngôi trời chẳng tức chi,
Chạnh vì tuổi nhỏ phải sinh ly.
Chẳng qua sợ quỷ vô thường đến,
Từ giã tìm tiên
kẻo trễ kỳ”
Nội cung nghe thơ đều òa khóc. Vua Định Đại mỉm
cười không rơi nước mắt. Vua Khai Minh lạy và tâu rằng: “Phụ vương mỏi mệt việc
chánh, nay có con kế vị rồi, như cha có muốn tu hành thì lập am rước thầy về ở
chung cũng đặng, lẽ nào lặn suối trèo non, vợ con an lòng sao đặng?”. Vua Định
Đại cười rằng: “Tu hành phải chịu nhọc sức tìm thầy, không lẽ hưởng nhàn[28] mà
thành tiên đặng. Vả lại đã hứa tìm thầy, không lẽ thất tín, hoàng nhi chớ khá
gián can. Nếu bịn rịn vợ con, không bao lâu cũng tới số, lấy làm vô ích quá chừng!”.
Hoàng thái hậu là Lý Hương Nương lau nước mắt mà tâu rằng: “Bệ hạ đã quyết ý
tìm tiên, tôi không dám cản. Xin nán lại một đôi bửa cho bớt sự thảm thương!”.
Vua Định Đại phán rằng: “Đại trượng phu quyết lòng, chẳng nên dụ dự, trẫm có ở
lâu cũng vô ích, trẫm vị tình vợ con bịn rịn, nán ở lại nửa ngày, mai trẫm nhứt
định từ giã”.
Rạng ngày vua Định Đại giã từ, vợ con và bá quan
theo đưa ba mươi dặm. Vua Khai Minh là Từ Âm thái tử hồi trước, khóc nước mắt
như mưa. Vua Định Đại khuyên rằng: “Hoàng nhi than khóc làm chi, bề nào cầm cha
cũng không đặng, hoàng nhi phải lo xã tắc làm trọng, hiếu thuận với quốc mẫu mà
thôi”.
Nói rồi từ giã đi liền, vua Khai Minh quỳ lạy
khóc ròng té nằm chết giấc. Bá quan để lên xe rồng, đem về đền; lần lần tỉnh
lại. Bá quan khuyên giải, vua Khai Minh thỉnh thoảng nguôi dần.
Thật là:
“Muôn việc thế gian đều thảm thiết,
Một là tử biệt với sinh ly”
HỒI THỨ NĂM
Định Đại tu hành một cõi
Khi ấy vua Định Đại đi có một mình đến trời tối
mà chưa tới núi tiên, không biết thầy đạo sĩ ở đâu mà tìm kiếm, song cũng đi
hoài không nghỉ.
Giây phút gặp thầy; vua Định Đại mừng rỡ bội
phần, cúi đầu làm lễ, thầy đạo sĩ nói: “Ngươi đà đi đến đây, mà việc nước ngươi
tính xong chưa?”. Vua Định Đại thưa rằng: “Đệ tử tính xong rồi hết, nay quyết
chi đi tu mà thôi”. Thầy đạo sĩ nói: “Từ nầy sắp sau nước ngươi bình an vô sự,
ngươi hãy trở về nước mà hưởng giàu sang!”. Vua Định Đại thưa rằng: “Đệ tử
quyết chí đi tu, còn hưởng chi phú quý, lẽ nào trở lại cố viên[29]?”. Thầy đạo
sĩ nói: “Ở trên núi cực khổ muôn phần, ngươi chịu làm sao thấu?”. Vua Định Đại
thưa rằng: “Đệ tử quyết chí tu hành, bao nài lao khổ”. Thầy đạo sĩ nói: “Ở núi
cơ hàn[30]lắm! Không phải như thế gian đâu!”. Vua Định Đại thưa rằng: “Đệ tử
quyết chí tu hành, cơ hàn phải chịu”. Thầy đạo sĩ nói: “Hơi núi đã lạnh lấy áo
đâu mà đỡ thân, cơm gạo cũng không có, cơm đâu mà đỡ dạ? Thêm một nỗi không nhà
nào mà hóa trai, lâu ngày chắc phải khốn!”. Vua Định Đại thưa rằng: “Đệ tử
quyết tu cho thành, dầu chết cũng không tiếc mạng”. Thầy đạo sĩ cười rằng: “Như
vậy thì đặng, hãy theo ta vào núi Bồng Lai”. Vua Định Đại mừng rỡ tạ ơn.
Khi ấy thầy đạo sĩ dẫn vua Định Đại vào đến núi
Bồng Lai, thấy cảnh tiên xinh tốt,hạc nai cả bầy, tòng bá xanh mịt. Thầy đạo sĩ
bảo vua Định Đại che lều tranh ở dựa Chân núi, thầy trò nương náo tu hành cứ
dạy kinh truyền phép, tập luyện đã lâu ngày. Thầy đạo sĩ ngồi chừng nào, vua
Định Đại cũng ngồi theo chừng nấy, song có ý mỏi mê. Thầy đạo sĩ ấy là ông Diệu
Lạc thiên tôn, nên coi thấu xa lắm; biết ý vua Định Đại mỏi lòng.
Ngày kia thầy đạo sĩ bày kế, thử vua Định Đại coi
lòng còn mến tục hay chăng. Nên bảo rằng: “Thầy ở non lâu ngày, muốn ăn đào
lắm, ngươi hãy xuống chợ, mua về ít trái mà dùng”. Vua Định Đại vưng lời đi
chợ.
Khi ấy Diệu Lạc thiên tôn thấy vua Định Đại đã đi
xa, liền hóa ra một người con gái, xinh tốt như tiên, bưng đào đi bán. Vua Định
Đại gặp đào mừng lắm, liền hỏi giá mà mua. Nàng ấy nói: “Đào nầy là đào tiên,
một cây có một trái nên giá tời một ngàn lượng vàng”. Vua Định Đại cười rằng:
“Dầu một cây sinh một trái, cũng không tới giá ấy, cô không muốn bán thì thôi”.
Nàng ấy nói: “Thiếp không phải làm ngặt, đào nầy mười mấy năm mới có một
trái,giá đáng ngàn vàng; phận tôi là gái góa một mình làm chi đặng nỗi, nhờ
trồng đào quý báu mà nuôi mình. Như chàng khứng kết nghĩa với thiếp,thiếp xin
dưng trái đào này. Bằng không phải đủ ngàn vàng mới bán”. Vua Định Đại nói:
“Bần đạo là kẻ xuất gia, lẽ nào về tục?”. Nàng ấy nói: “Người xuất gia về tục
thiếu chi? Nếu chàng không bằng lòng, e sau về tục khó gặp người như thiếp. Vả
lại gia thế của thiếp cũng quá ngàn vàng, không thiếu chi mà sợ”. Vua Định Đại
lắc đầu đi xuống chợ, nàng ấy cũng cứ theo hoài.
Tới chợ vua Định Đại kiếm khắp nơi, không thấy ai
bán đào, vì trái mùa nên khó kiếm. Trở về một đổi, gặp nàng bán đào khi nảy hỏi
rằng: “Chàng kiếm đào mua đặng hay chưa? Chớ thiếp không bán cho ai hết, có
lòng để dành cho chàng, xin hãy nhậm lời, kẻo sau không gặp nữa!”. Vua Định Đại
làm thinh. Nàng ấy nói: “Thiếp chẳng bó buộc, miễn hứa một tiếng thì thiếp chịu
dưng đào”. Vua Định Đại cứ lắc đầu mãi. Nàng ấy nói: “Chàng chẳng hứa kiếp nầy
thì thôi, hứa kiếp sau cũng đặng”. Vua Định Đại nghĩ rằng: “Chuyện hứa lai sinh
có chi chắc mà sợ, nếu không hứa thì chẳng có đào, lấy chi đem về cho sư phụ!”.
Nghĩ rồi nói rằng: “Hứa kiếp nầy thì không, hứa kiếp sau thì đặng”. Nàng ấy
cười rằng: “Chàng hứa kiếp sau làm vợ chồng với thiếp, xin chớ thất ngôn!”. Nói
rồi liền đưa trái đào. Vua Định Đại mừng thầm nghĩ rằng: “Nếu không hứa tái thế
thì chẳng có đào quý mà dưng cho thầy”. Nghĩ rồi giã từ về núi.
Còn Diệu Lạc thiên tôn giả hình đạo sĩ về trước,
ngồi trong am mà chờ. Đoạn vua Định Đại dưng đào, thầy đạo sĩ hỏi: “Đồ đệ đi
mua đào sao lại theo tục?”. Vua Định Đại kinh hãi thưa rằng: “Đệ tử chẳng hề
phạm điều chi, sao sư phụ nói vậy?”. Thầy đạo sĩ hỏi: “Ngươi có làm vợ chồng
kiếp sau với ai chăng?”. Vua Định Đại biết giấu thầy không đặng, túng phải thưa
rằng: “Đệ tử kiếm cùng chợ không có đào, gặp một nàng bán đào dọc đường, thách
tới một ngàn lượng. Nàng ấy bảo tôi hứa làm chồng vợ thì cho không trái đào
nầy. Tôi lắc đầu không chịu. Nàng ấy bảo hứa đời sau, thì chịu dưng đào. Tôi
túng phải hứa đỡ mà lấy trái đào, chớ chẳng phải thiệt tình kết nguyền kiếp
khác”. Đạo sĩ nói: “Từ xưa đến nay, hứa một lời là chắc, công tu bấy lâu nay
hết rồi, phải đầu thai kiếp khác”. Vua Định Đại khóc lớn lạy thầy và thưa rằng:
“Có phép chi cứu đệ tử khỏi đọa chăng?”. Thầy đạo sĩ nói: “Phép tu hành rất
nghiêm, không lẽ khỏi đặng! Ta làm sao mà cứu người? Trừ ra kiếp sau, ta sẽ độ
ngươi tu hành nữa”. Vua Định Đại lạy thầy thưa rằng: “Bề nào tôi cũng phải đọa,
song xin thầy lấy lòng thương xót, cho tôi đầu thai vào chỗ hiền lành, để dễ bề
tu hành, khỏi sa đọa nữa!”. Thầy đạo sĩ nói: “ Ngươi có căn tiên, cốt phật, bề
nào sau cũng hiền lương, chừng đó ta sẽ dìu dắt tu hành, chắc thành chánh quả”.
Vua Định Đại lạy thầy và thưa rằng: “Chẳng hay thầy cho đệ tử đầu thai về chốn
nào?”. Thầy đạo sĩ nói: “Ta coi vua nước Tây Hà, làm lành đã ba đời, phước đức
lớn lắm. Song đờ nầy không có con trai, đương làm chay mà cầu tự[31]. Ta cho
ngươi đầu thai thì xong”. Vua Định Đại nghe nói, liền bỏ cơm bảy ngày mà chết.
Diệu Lạc thiên tôn đem hồn vua Định Đại qua giáng sinh đầu thai bên nước Tây
Hà.
HỒI THỨ SÁU
Thiên Tôn dìu dắt hai phen
Nói về vua nước Tây Hà là Lý Thiên Phú, bốn mươi
tuổi mà không có con. Ngày kia vua Thiên Phú lâm triều, bá quan văn võ chầu
chực. Vua Thiên Phú phán rằng: “Quả nhân tuổi đã tứ tuần, không sinh đặng thái
tử, biết làm sao mà lập đông cung?”. Quan văn Bành Lương, Bành Lý, Châu Sĩ
Vinh; quan võ Quách Xuân đồng tâu rằng: “Xin Bệ hạ làm chay mà cầu tự, có lòng
thành chắc đặng chẳng sai”. Vua Thiên Phú y tấu. Truyền chỉ cho quan chỉ
huy[32]là Mạnh Anh lập đàn nghiêm chỉnh. Truyền coi ngày tốt mà làm chay.
Đến ngày ấy, vua Thiên Phú và hoàng hậu Mạc Thiện
Huyền đồng đến đàn làm chay quỳ lạy.
Khi ấy Diệu Lạc thiên tôn ngó thấy vợ chồng vua
Thiên Phú có lòng thành, liền đem hồn phách vua Định Đại thổi vào miệng hoàng
hậu. Mạc Thiện Huyền lạy vái rồi về cung.
Cách vài tháng hoàng hậu thọ thai, vua Thiên Phú
vui lòng toại chí, truyền dọn yến ăn mừng, đãi quan lớn nhỏ và tha thuế cho bá
tánh một năm.
Còn hoàng hậu Mạc Thiên Huyền nghén tới ba năm lẻ
hai tháng mà chưa sinh. Vua Thiên Phú lo sợ, lâm triều phán hỏi bá quan rằng:
“Hoàng hậu nghén ba năm hai tháng mà chưa khai huê, trẫm e là điềm bất phải
chăng?”. Bá quan hồ nghi không dám tấu. Vua Thiên Phú cho đòi hoàng hậu đến quở
rằng: “Từ xưa đến nay đàn bà nào nghén cũng mười trăng thì sinh sản. Trừ ra
nghén lâu sinh là Tần Thủy Hoàng, cũng nội mười hai tháng, vua Nghiêu mười bốn
tháng mà thôi, không lẽ nghén lâu như nghén Lão Tử. Còn hoàng hậu bây giờ nghén
ba năm lẻ hai tháng, chắc là thai dữ rõ ràng, trẫm tức tối mười phần, muốn trừ
thai quái gở”. Hoàng hậu quỳ tâu rằng: “Thiếp thuở nay nhân đức, không lẽ cầu trời
khẩn phật, lại cho nghén yêu tinh?”. Tôi xin kỳ ba ngày, nếu chẳng sinh thai
tôi sẽ tự tận”. Tâu rồi trở vào cung lau nước mắt mà than rằng: “Đời nay thiếp
không làm điều chi thất đức, chưa rõ kiếp trước thể nào. Nay làm chánh cung lâu
mà không con, đến cầu tự có thai lai bị sự quái gỡ mà chết”.
Xảy nghe trong bụng nói rằng: “Xin mẹ đừng lo sự
ấy, con là người lương thiện đầu thai. Xin mẫu hậu tâu với phụ vương rằng: Đời
Châu bà Ngọc Nữ nghén ông Lão Tử hơn tám chục năm mới sinh, sau ông Lão Tử làm
tổ trong đạo tiên. Có chi lạ mà hồ nghi”. Hoàng hậu nghe nói nửa mừng nửa sợ,
gượng gạo nói rằng: “Tuy con là người lành đầu thai mặc lòng, song cha của con
tánh nóng như lôi đình, nếu ba ngày nữa mà chưa sinh chắc mẹ phải chết”. Trong
bụng trả lời rằng: “Xin mẹ đừng lo, giờ tuất đêm nay con ra mặt, xin mẹ đừng
giật mình”. Hoàng hậu nói: “Miễn sinh con cho đặng, dầu mẹ có thác cũng không
phiền”.
Giây phút hoàng hậu chuyển bụng, cung nga, thể nữ
mừng quá, rước mụ vào cung. Đến giờ tuất hào quang chiếu sáng trong phòng, sinh
thái tử ra, mùi hương bát ngát. Đêm ấy nhằm mồng ba tháng ba. Cung nga tâu lại,
vua Thiên Phú mừng rỡ, ngự đến cửa phòng chánh cung, truyền cung nga bồng thái
tử ra xem thử, thấy hình dung đoan chánh rất mừng. Truyền chỉ an ủi hoàng hậu,
rồi ngự về cung.
Rạng ngày vua Thiên Phú lâm triều, truyền đãi yến
bá quan, ăn mừng vì thái tử trỗ mặt. Bá quan chúc tụng xong xả. Vua Thiên Phú
đặt tên cho thái tử là Huyền Khoáng, rồi bãi chầu lui vào cung.
Đến khi Huyền Khoáng thái tử mười lăm tuổi, ở
hiếu đạo tròn vẹn, cha mẹ rất bằng lòng. Vả lại thái tử học một biết mười,
thông minh thứ nhất, văn võ kiêm toàn.
Ngày kia vua Thiên Phú lâm triều, bá quan chầu
chực, vua Thiên phú phán rằng: “Trẫm đã năm mươi tám tuổi, trị vì cũng lâu năm,
nên mỏi mê trễ nãi. Nay đông cung đã lớn, trẫm muốn nhường ngôi, bá quan thương
nghị lẽ nào?”. Bá quan tâu rằng: “Bệ hạ là chúa nhân từ, thái tử là con hiếu
thuận, lại tài đức kiêm toàn, võ văn cụ bị. Nếu bệ hạ thiện vị cho đông cung,
thì quốc thái dân an như trước”. Vua Thiên Phú vui lòng, truyền đòi Huyền
Khoáng thái tử, Huyền Khoáng thái tử đến chầu, tung hô xong xả. Vua Thiên Phú
truyền chỉ dụ, rồi trao ngọc ấn cho thái tử tức vị.
Khi ấy Huyền Khoáng thái tử tôn cha làm thái
thượng hoàng, tôn mẹ làm hoàng thái hâu, đưa cha mẹ về cung dưỡng lão. Rồi trở
lại đền phong bá quan văn võ đều thêm một cấp. Đãi yến quần thần, rồi ban chiếu
ân xá tù tội. Lại tuyển Phạm thị phong làm chánh cung, tuyển ba mươi sáu cung
nga, lập bảy mươi hai vườn ngự uyển xưng hiệu là Tây Hà quốc vương.
Năm sau Phạm hoàng hậu sinh đặng một trai, Tây Hà
quốc vương đặt tên con là Kế Xương thái tử.
Sau Kế Xương thái tử mười hai tuổi, thì thái
thượng hoàng và hoàng thái hậu đều băng; Tây Hà quốc vương tống táng y lễ. Kế
Xương thái tử thông minh hiền hiếu như cha.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn đợi vua Tây Hà quốc
vương mãn tang rồi mới hóa hình đạo sĩ đến độ, e lâu ngày vua Tây Hà đắm việc
hồng trần, sau khuyên không đặng. Còn bấy lâu không độ, là có ý để cho Tây Hà
quốc vương cư tang cho trọn hiếu, và Kế Xương thái tử cho lớn khôn. Chẳng phải
như kẻ chưa con, mà nói sự tu hành trái lẽ lắm.
Ngày kia Tây Hà quốc vương ngự ra hoàng lăng mà
thăm lăng cha mẹ, mới đi về nửa đường, thấy thầy đạo sĩ ngồi trơ trơ giữa lộ;
dường như hình đất, hình cây. Quan hộ giá nạt đuổi cũng không tránh. Quan hộ
giá tấu lại vân vân. Tây Hà quốc vương phán rằng: “Đạo sĩ ấy có đức mới không
sợ quả nhân. Để trẫm đến xem người ấy ra thể nào”. Khi ngự giá đến gần, thấy
đạo sĩ hình dung đoan chánh, tướng mạo thanh kỳ, ngồi trơ trơ như phật cốt; Tây
Hà quốc vương biết là người lương thiện truyền ngừng long xa lại, bước xuống xe
bái đạo sĩ, đạo sĩ đáp lễ. Tây Hà quốc vương phán hỏi rằng: “Chẳng hay vì cớ
nào, thầy ngồi giữa đường làm thinh thế?”. Đạo sĩ nói: “Thiệt không có cớ chi,
thấy Bệ hạ đi lạc đường, nên tôi chỉ đường cho Bệ hạ”. Tây Hà quốc vương phán
hỏi rằng: “Quả nhân đi có kẻ dẫn đường, không lẽ sái mà thầy phải chỉ?”. Đạo sĩ
nói: “Quan dẫn lộ thì dắt đường dương gian thì không lạc, còn tôi chỉ đường cho
Bệ hạ là đường lai thế, chớ không phải đời nay”. Tây Hà quốc vương phán rằng:
“Thầy chỉ đường lai thế cho trẫm đặng, thì thầy chắc là tiên”. Đạo sĩ nói: “Tôi
là sơn nhân[33]”. Tây Hà quốc vương phán hỏi rằng: “Sao thầy biết đặng việc lai
thế?”. Đạo sĩ nói: “Biết đời nầy thì biết đời sau, biết khi vui thì biết khi
thãm, biết lúc hiệp thì biết khi lìa. Chẳng những biết việc lai thế mà thôi,
biết thấu một trăm đời cũng đặng”. Tây Hà quốc vương phán hỏi rằng: “Thầy cắt
nghĩa việc đời cho trẫm nghe thử”. Đạo sĩ nói: “Bệ hạ nghe bài thơ nầy thời đủ
hiểu.
Nói rồi liền ngâm lớn rằng:
“Phú quý lợi danh như nước chảy,
Sắc tài tửu khí tợ mây tan.
Ngựa xe áo mão không bền bỉ,
Nhắm mắt hườn ra đống cốt tan”
Tây Hà quốc vương nghe qua phán rằng: “Thấy đã
biết đời việc chẳng bền; cơ nghiệp lợi danh không chắc, thì thầy biết phép
trường sinh. Trẫm xin thỉnh về đền, đặng chỉ đường lai thế”. Đạo sĩ nghe nói
vùng khóc lớn than rằng: “Tôi đi tu hồi nhỏ, nay đã bốn mươi lăm tuổi, hằng
dưỡng tánh thanh nhàn, chắc không dám bước vào cửa địa ngục”. Tây Hà quốc vương
nghe qua nổi giận, truyền quan chỉ huy là Hàng Thông chỉ huy chém đạo sĩ cho
rãnh. Đạo sĩ cười rằng: “Muốn chém bần đạo cũng không khó. Bần đạo xin hỏi một
điều: Bệ hạ có biết mình là người chi giáng sinh chăng?”. Tây Hà quốc vương
phán rằng: “Trẫm thiệt chẳng biết, mà khanh thấu hay sao?”. Đạo sĩ nói: “Lẽ nào
tôi không hiểu sự ấy!”. Tây Hà quốc vương phán rằng: “Khanh nói dối rằng biết
chuyện trăm đời, có cớ chi làm chắc? Rõ ràng khoe miệng dối đời không lẽ dối
trẫm đặng”. Đạo sĩ cười ngất nói rằng: “Nếu không bằng cớ, thì tôi buộc tội
chết vào mình sao?”. Đạo sĩ nói rằng: “Xin cho tôi một chậu nước trong, thì đủ
bằng cớ”.
Khi ấy Tây Hà quốc vương truyền chỉ huy Hàng
Thông múc chậu nước đem lại. Đạo sĩ nói: “Bệ hạ soi vào chậu nước, thì thấy
việc đời sau. Tây Hà quốc vương ngó vào chậu nước, thấy một ông tiên đương nói
chuyện với Ngọc đế. Đạo sĩ hỏi rằng: “Bệ hạ thấy trong chậu nước ra thể nào?”.
Tây Hà quốc vương phán rằng: “Có một ông tiên đương nói chuyện với Ngọc Đế thì
phải”. Đạo sĩ nói: “Xin Bệ hạ soi một lần nữa, coi có khác hay chăng?”. Tây Hà
quốc vương ngó vào, thấy một con trâu cày ruộng. Đạo sĩ hỏi: “Bệ hạ thấy vật
chi chăng?”. Tây Hà quốc vương phán rằng: : “Không thấy hai hình hồi nảy, có
một con trâu cày ruộng mà thôi”. Đạo sĩ hỏi: “Bệ hạ hiểu chưa?”. Tây Hà quốc
vương phán rằng: “Trẫm không nghĩ ra, bàn cũng không thấu, xin thầy cắt nghĩa
cho rành”. Đạo sĩ nói: “Ngọc Hoàng Thượng Đế chia một phần hồn giáng sinh là Bệ
hạ. Như Bệ hạ tu hành sẽ thành một ông tiên ngồi dựa bên Ngọc đế. Như Bệ hạ đời
nay không tu luyện, kiếp khác sẽ hóa hình như lần sau”. Tây Hà quốc vương phán
rằng: “Đạo sĩ dùng phép yêu đặng mạ tròng đen trẫm, Hàng Thông chém đạo sĩ cho
rồi!”.
Khi ấy Hàng Thông vưng lịnh, mới cầm gươm lại
gần, bị đạo sĩ thổi một hơi, Hàng Thông nhào hớt. Đạo sĩ đằng vân lên nửa lừng.
Tây Hà quốc vương thấy vậy hãi kinh, ăn năng không kịp. Liền quỳ lạy thinh
không mà chịu lỗi. Đạo sĩ cười chúm chím, ngâm thơ như vầy:
“Ai cũng mong giàu có,
Người đều ghét khó hèn.
Nghèo tu may mấy kiếp,
Giàu dữ, khổ nhiều phen.
Kẻ tội làm cầm thú,
Người tu hóa phật tiên.
Nếu vua không tỉnh lại,
Kiếp khác họa theo liền”
Tây Hà quốc vương quỳ lạy bạch rằng: “Quả nhân
nguyện quy y theo tiên trưởng, xin chỉ nẻo tu hành”. Đạo sĩ ở nửa lừng ngâm hai
câu thơ như vầy:
“Muốn về chốn Tiên cung,
Phải vào non Linh Tựu”
Ngâm thơ rồi biến mất. Tây Hà quốc vương lạy
thinh không mà vái rằng: « Đệ tử kính vưng lời sư phụ ». Nói rồi ngó quần thần
mà phán rằng: « Nay trẫm xuất gia, không trị nước nữa ; quyết vào non Linh tựu
mà tu hành. Vậy thì các khanh đừng tùy giá[34] làm chi, hãy trở về triều, tôn
Đông cung Kế Xương tức vị. Các khanh lấy lòng trung giúp nước mà thôi ». Bá
quan quỳ lạy tâu rằng : « Thiên hạ nhiều người tu hành lắm, nào thấy ai thành
tiên. Còn Bệ hạ nhân đức như trời xanh, thương dân như con đỏ ; lẽ nào kiếp sau
còn mắc đọa hay sao ? Ấy là lời đạo sĩ dối đời. Xin Bệ hạ đừng tin, sau ăn năng
không kịp ». Tây Hà quốc vương phán rằng: « Quả nhân quyết chí đi tu, các khanh
giáng thế nào cũng không đặng, chẳng nên tấu nhiều lời. Hãy cứ theo chỉ của
trẫm». Bá quan tâu rằng: « Bệ hạ đã quyết lòng, chúng tôi không dám nghịch chỉ.
Vậy thì chọn ít trăm binh bảo giá, đưa Bệ hạ lên non thì chúng tôi mới vừa ý ».
Tây Hà quốc vương cười và phán rằng: « Khi trước trẫm còn trị nước, thì biết có
thân nầy. Nay đã xuất gia không màng việc chi cả, chẳng dụng các khanh bảo giá,
đừng tâu nữa uổng lời ». Phán rồi đi thẳng qua hướng tây, quyết tìm non Linh
tựu. Bá quan ngó chừng theo cho tới hết thấy, mới chịu về trào.
Còn Tây Hà quốc vương đi một mình, hèn lâu mới
tới núi Linh tựu. Xảy gặp đạo sĩ, Tây Hà quốc vương mừng quá, làm lễ rồi bạch
rằng: « Xin sư phụ dắt dìu đệ tử ! ». Đạo sĩ nói: « Ngươi đã đến đây, hãy đứng
dậy nghe ta dạy việc ? ». Nói rồi hiện hình Diệu Lạc thiên tôn và thuật chuyện kiếp
trước. Lại giảng qua sự thiên đường địa ngục, luân hồi báo ứng vân vân. Rồi dạy
phép ngồi cho đến thành và hồn và xác.
Tây Hà quốc vương lạy tạ ơn. Diệu Lạc thiên tôn
giảng kinh một hồi, rồi dặn rằng: « Người tu luyện, phải giữ ngũ giái là năm
điều răn : nhứt bất sát sinh (không cho sát hại). Nhị bất du đạo (cấm trộm
cướp). Tam bất tà dâm (cấm gian dâm). Tứ bất tửu nhục (cấm rượu thịt). Ngũ bất
vọng ngữ (cấm nói dối). Ngươi phải lạy trời, chịu giữ năm điều ấy, rồi cứ ngồi
mãi mà đợi ta ». Tây Hà quốc vương y lời. Diệu Lạc thiên tôn đằng vân bay mất.
Còn Tây Hà quốc vương ở một mình tu hành tại đó,
đói ăn trái cây, khát uống nước suối, rồi cứ ngồi trên núi mà chờ thầy.
Nói về bá quan về trào, tâu với hoàng hậu và thái
tử vân vân. Hoàng hậu, thái tử khóc ròng, mẹ con quyết tìm vua cho gặp. Bá quan
tâu rằng : « Trong nước chẳng phép một ngày mà không chúa. Nương nương muốn đi
tìm Bệ hạ, trước phải tôn thái tử tức vị cho rồi, cách bốn mươi chín ngày mới
dám bỏ ngai đi thăm Bệ hạ ». Hoàng hậu y tấu, bá quan đều tôn Kế Xương thái tử
lên ngôi. Xưng hiệu Hiệp Tường, tôn mẹ làm hoàng thái hậu. Đãi yến quân thần,
ân xá tù tội, cũng nhân đức như vua cha.
Đủ bốn mươi chín ngày, vua Hiệp Tường truyền dọn
hai xe. Hoàng thái hậu và vua Hiệp Tường đồng lên núi Linh tựu, bá quan hộ giá
rất đông, đi tới đâu cũng thắp hương cặm dọc đường thơm ngát; van vái kiếm cho
đặng vua cha mà rước về.
Đoạn đến Linh tựu sơn, kiếm cùng núi không gặp
một người mà hỏi thăm, thấy những chim kêu vượn hú.
Đi giây lâu đến đám tùng rậm, thấy bên tả có hạc
múa, bên hữu có vượn kêu, chính giữa có bàn thạch lớn, một ông già ngồi trên
bàn thạch, hình vóc ốm o, da như vỏ cây, mặt như hình gỗ, coi lại cho kỹ là Tây
Hà quốc vương. Hoàng hậu và vua Hiệp Tường đồng lại ôm Tây Hà quốc vương mà
khóc. Bá quan xem thấy cũng động lòng, đồng quỳ lạy tung hô vạn tuế.Còn hai mẹ
con lạy lục năn nỉ, xin rước Tây Hà quốc vương về đền. Tây Hà quốc vương làm
thinh không nói lại. Mẹ con cứ năn nỉ hoài. Tây Hà quốc vương cứ làm thinh như
cũ.
Giây lâu gió thổi như bão, đá chạy cát bay. Đến
khi lặn gió, thì không thấy Tây Hà quốc vương, chắc là bị gió thổi nên bay mất.
Hoàng thái hậu và Hiệp Tường hoàng đế mẹ con than khóc một hồi. Bá quan tâu
rằng : « Trận bão nầy là trời làm cho dứt tình, hết biết chỗ mà kiếm nữa. Song
thái thượng hoàng có lòng tu luyện, chắc đặng thành tiên. Trời khiến như vầy,
người cãi sao đặng. Xin hoàng thái hậu và Bệ hạ ngự về trào, sẽ treo bảng cho
thiên hạ hay rằng: « Nếu ai kiếm đặng thái thượng hoàng mà báo tin hoặc rước về
thì đặng chức đại thần. Chớ bây giờ ở đây mà khóc hoài cũng vô ích « . Mẹ con y
tấu lên xe, đồng về trào với bá quan văn võ. Rồi phong bảng rao khắp nơi, song
thiên hạ tìm kiếm chẳng đặng.
HỒI THỨ BẢY
Ngọc Hoàng Thượng Đế phong quan
Nói nhắc lại, trận bão khi nãy là Diệu Lạc thiên
tôn làm phép, đem Tây Hà quốc vương lên mây. Đến khi thái hậu và vua Hiệp Tường
về cung, thì Diệu Lạc thiên tôn đem Tây Hà quốc vương xuống chỗ cũ mà dặn rằng:
« Ngươi ở đây tu luyện ba năm, sẽ có ta đến ». Tây Hà quốc vương liền dạ. Diệu
Lạc thiên tôn đằng vân bay mất. Còn một mình Tây Hà quốc vương ở lại, ngồi tu
luyện ngày đêm. Đói ăn trái tòng, khát uống nước suối. Như vậy cho mãn ba năm.
Ngày kia Diệu Lạc thiên tôn đến hỏi rằng: « Đồ đệ
người biết đạo tiên ra thế nào chăng ? ». Tây Hà quốc vương chào thầy, rồi bạch
rằng: « Đệ tử không biết chi hết ». Diệu Lạc thiên tôn hỏi: « Biết trong mình
ra thể nào chăng ? ». Tây Hà quốc vương bạch rằng: « Đệ tử mấy tháng nay không
ăn uống chi, ngồi hoài đã cứng mình như chết ». Diệu Lạc thiên tôn thấy Tây Hà
quốc vương không biết việc chi trong trời đất thì biết cái tâm đã chết rồi, nên
mỉm cười mà khen rằng: «Như vậy thì đã thành công!». Tây Hà quốc vương bạch
rằng: «Bây giờ mới tính làm sao?». Diệu Lạc thiên tôn nói: «Nay cho ngươi năm
sắc mây lành, đưa về thiên cung ra mắt Ngọc Hoàng Thượng Đế». Tây Hà quốc vương
tạ ơn thầy.
Diệu Lạc thiên tôn hóa mây lành, đưa Tây Hà quốc
vương tới Tam Thanh các, vào ra mắt ba ông Tam Thanh. Ba ông Tam Thanh dọn tiệc
khánh hạ[35]
Bửa sau, Ngọc Hoàng Thượng Đế lâm trào, các thần
tiên chầu chực. Tam Thanh quỳ tâu rằng: «Diệu Lạc thiên tôn độ đặng một đệ tử,
nay tu đã thành công, xin vào ra mắt thánh chúa». Ngọc đế truyền chỉ đòi vào.
Khi ấy Tây Hà quốc vương vào trước đền Thông Minh
tung hô xong xả. Thượng Đế phán rằng: «Bá quan nghị phong chức chi?». Các thần
tiên quỳ tâu rằng : « Hồn thánh chúa hóa thân làm Tây Hà quốc vương, nay đã tu
hành thành công về đây, tự ý thánh chúa phong tặng ». Thượng Đế nhớ trực lại,
động lòng thương xót, đòi Tây Hà quốc vương lên dựa ngai rồng, phủ ủy nhiều
lời, rồi phán rằng: «Trẩm phong khanh làm chức: Kim Khuyết hóa thân, Đãng Ma
thiên tôn. Đặng về phủ Cửu Thiên, cung Thái Dương, cai trị ba mươi sáu vị thiên
tướng. Trẫm ban cho mão bửu quan, áo bắc long bào, và một cây gương thất tinh,
đặng phép ngồi chung với trẫm». Đãng Ma thiên tôn tạ ơn. Thượng Đế đãi yến.
Hôm sau Đãng Ma thiên tôn đến cung Thái Dương
lãnh việc điểm tướng. Người con cung ấy là Đặng Hóa nghinh tiếp. Đãng Ma thiên
tôn nói rằng: « Ta vâng chỉ Thượng Đế phong chức Đãng Ma cai trị ba mươi sáu
thiên tướng nay đến đây lãnh việc, sao không thấy tướng nào ? ». Đặng Hóa thưa
rằng : « Khi trước Thượng Đế xuất một hồn cai trị cung Thái Dương nên ba mươi
sáu thiên tướng chịu phép. Kể từ khi linh hồn đi giáng sinh, không ai cai trị,
nên ba mươi sáu thiên tướng đã trốn xuống thế gian hết rồi ». Đãng Ma thiên tôn
nói: «Như vậy thì ngày mai ta sẽ tâu với thánh chúa ».
Hôm sau Thượng Đế lâm triều, thần tiên chầu chực.
Đãng Ma thiên tôn quỳ tâu rằng: «Nhờ ơn Bệ hạ cho tôi cai trị Thái Dương cung,
song bấy lâu vô chủ, ba mươi sáu thiên tướng đều trốn xuống phàm nên tôi phải
tâu lại». Thượng Đế phán rằng: «Đãng Ma thiên tôn tâu như vậy, các khanh nghị
lẽ nào?». Các thần tiên tâu rằng: «Ba mươi sáu thiên tướng thuộc về Đãng Ma
thiên tôn cai trị, nay trốn hết, thì Đãng Ma thiên tôn phải giáng hạ mà thâu
về». Thượng Đế y tấu, truyền Đãng Ma thiên tôn xuống phàm mà thâu thiên tướng.
Đãng Ma thiên tôn tạ ơn.
Đoạn bãi chầu, Đãng Ma thiên tôn về cung buồn
bực. Không biết ba mươi sáu thiên tướng ở chốn nào mà đi thâu. Ngẫm ngĩ rằng :
« Thế này thì phải hỏi thăm thầy mới rõ ». Nghĩ rồi tìm đến ra mắt Diệu Lạc
thiên tôn mà bạch rằng : « Đệ tử ra mắt sư phụ ». Diệu Lạc thiên tôn hỏi : « Đồ
đệ đến có việc chi ? ». Đãng Ma thiên tôn bạch rằng : « Đệ tử nhờ ơn chúa, cho
cai trị Thái Dương cung, quản ba mươi sáu thiên tướng. Đệ tử đến đó mới hay các
thiên tướng trốn hết xuống phàm, nên về tâu lại. Thượng Đế truyền chỉ sai đệ tử
xuống phàm, thâu ba mươi sáu thiên tướng. Song đệ tử không biết đi ngỏ nào,
phải đến cầu thầy chỉ dẫn ». Diệu Lạc thiên tôn nói : « Như vậy thì ngươi còn
mắc nạn bốn mươi hai năm nữa, bây giờ muốn thâu thiên tướng ngươi phải giáng
sinh tu hành một kiếp nữa, mới thâu đặng thiên tướng đem về ». Đãng Ma thiên
tôn bạch rằng: « Bây giờ đệ tử phải đầu thai nhà nào ? ». Diệu Lạc thiên tôn
nói : « Nay vua Tịnh Lạc quốc vương không con. Thiện Thắng hoàng hậu đương cầu
khẩn. Vậy thì ngươi hóa ra hào quang, đầu thai vào đó, sau tu hành thành đạo,
sẽ thâu thiên tướng đem về ». Đãng Ma thiên tôn tạ từ thầy, rồi hóa hào quang
bay xuống nước Tịnh Lạc.
Nói về Thiện Thắng hoàng hậu, đương thắp hương
cầu khẩn sau huê viên, xảy thấy hào quang sáng lòa, bay nhập vào bụng. Thiện
Thắng hoàng hậu mừng rỡ về cung. Đêm ấy Thiện Thắng hoàng hậu chiêm bao, thấy
nuốt mặt nhựt. Từ ấy sắp sau thọ thai, đến mười tháng, nhằm ngày mồng ba tháng
ba, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ hai mươi lăm, hồi giờ ngọ, Thiện Thắng hoàng
hậu nức hông bên tả, thái tử chung ra. Thiện Thắng hoàng hậu đã xỉu.
Khi ấy Diệu Lạc thiên tôn thổi một hơi, Thiện
Thắng hoàng hậu tỉnh lại, coi hông đã lành rồi. Thấy có chín con rồng nhỏ, nhổ
nước miếng tắm cho thái tử.
Giây phút Diệu Lạc thiên tôn đằng vân, chín con
rồng cũng bay hết. Thiện Thắng hoàng hậu sai cung nga tâu cho vua hay. Tịnh Lạc
quốc vương mừng rỡ, truyền bồng thái tử ra xem, thấy mặt mũi phương phi, lòng
mừng khấp khởi. Đặt tiên là Huyền Nguyên thái tử.
Đến khi Huyền Nguyên thái tử mười bốn tuổi, nhằm
tiết ngươn tiêu, Huyền Nguyên thái tử tâu với phụ vương, xin phép đi coi đèn.
Tịnh Lạc quốc vương phán rằng: « Con là Đông cung,chẳng nên coi đèn ban đêm, e
việc rủi ro khó lắm ». Huyền Nguyên thái tử tâu rằng : « Con giả làm dân giả,
đi coi đèn giây phút trở về, chẳng sinh sự mà phụ vương lo sợ ». Tịnh Lạc quốc
vương y tấu, sai chỉ huy Thang Bá theo hộ giá Đông cung. Huyền Nguyên thái tử
đi với quan chỉ huy, có bốn tên thái giám hầu hạ. Thái tử ra tới chợ, thấy đèn
ngươn tiêu sáng như ban ngày. Huyền Nguyên thái tử đi trước, Thang Bá và bốn
thái giám theo sau. Thái tử ngó thấy dãy bên nam có mấy người say rượu, ngồi
ngã siêu ngã tó, ói mửa om sòm. Kẻ thì nằm bất tỉnh nhân sự.
Khi ấy Thái tử không ưa, liền đi ngang qua dãy
bên bắc, thấy những kẻ lên lầu xanh, dành con điếm hạng nhứt mà đánh lộn với
nhau. Thái tử ghét, bỏ qua dãy bên đông, thấy một người mang túi bạc ê ê, bị
quân hung hoang đánh mà giựt bạc. Rồi chúng nó giành bạc với nhau, cũng đánh
nhau thương tích như tài chủ.
Khi ấy Thái tử xem thấy lắc đầu than rằng : «
Biết sao tránh cho khỏi tửu, sắc, tài, khí, dầu không làm vua cũng đành ». Lúc
nầy Diệu Lạc thiên tôn muốn độ Thái tử, nên giả hình đạo sĩ đi coi đèn, mà xem
thử nhân gian lành dữ luôn thể. Vừa nghe Thái tử than như vậy. Liền quay lại
bái và nói rằng : « Tôi mới nghe khách quan nói : Muốn khỏi tửu, sắc, tài, khí.
Tôi có một phương trách như chơi ». Thái tử hỏi : « Thầy dùng phương chi mà
tránh khỏi bốn điều ấy ?». Đạo sĩ nói : « Bần đạo bỏ gia thế mà đi tu, cũng vì
tránh bốn chữ ấy ». Chỉ huy Thang Bá thấy đạo sĩ cám dỗ Thái tử đi tu thì
nghiến răng muốn chém đạo sĩ. Mới rút gươm ra, đạo sĩ hóa hào quang đằng vân
lên nửa lừng mà ngâm thơ rằng :
“Đạo tại trong tâm,
Song phải đi tầm.
Bằng tham phú quý,
Khó đến Lôi Âm”
Ngâm thơ rồi nói rằng: “Ta là Cửu Thiên Đẩu Mẫu
ngươn quân”. Thái tử nghe nói, liền lạy và thưa: “Đệ tử chịu bỏ giang san, quyết
đi tu cho thành chánh quả”. Đẩu Mẫu ngươn quân nói: “Ta lui về Thiên cung, nếu
ngươi không tu hành thì bỏ ngôi Thiên cung, hết trông trở lại”. Nói rồi liền
bay mất. Thái tử hãi kinh, đi về trào với Thang Bá.
Hôm sau Tịnh Lạc quốc vương lâm triều, Huyền
Nguyên thái tử tâu việc gặp đạo sĩ hồi hôm, tâu rằng: “Xin phụ vương cho con đi
tu, đặng về tiên cảnh”. Tịnh Lạc quốc vương phán rằng: “Nay yêu tinh nhiều lắm,
không chắc là thần tiên giáng thế độ người. Con chẳng nên tin lời mà bỏ giang
san phú quý. Trẫm nhứt định không cho xuất gia”. Thái tử tâu rằng: “Thần tiên
xưa nay thường có, người Chân tu thì đặng thành tiên. Lẽ nào không tin đạo cả.
Nếu thoảng mảng ngày qua tháng lụn e số mạng không chừa. Đến quỷ vô thường bắt
đi, ăn năn sao kịp. Xin phụ vương rộng lượng cho con xuất gia, ngày sau siêu
thăng, sẽ cứu độ tiên nhân tông tổ”. Tịnh Lạc quốc vương thấy con quyết chí đi
tu, cầm lại không đặng, liền nổi giận mà than rằng: “Hiệu úy Trịnh Tài, đem
Thái tử giam vào lãnh cung. Chừng nào thôi tính việc xuất gia sẽ tha như cũ”.
Phán rồi truyền bãi chầu.
Còn Thái tử bị giam cầm nơi lãnh cung, ngồi ngẫm
nghĩ rằng: “Có ngày đêm thì có âm dương, có âm dương thì có thiên đường thì có
địa ngục. Có người thì có ma quỷ thì có thần tiên, sự quỷ thần chắc có lắm. Nếu
đạo sĩ hồi hôm là tinh tà, lẽ nào lại khuyên mình tu luyện? Vả lại xưng là Đẩu
Mẫu ngươn quân, khuyên ta xuất gia tầm sư học đạo, nay hay ta mắc nạn, chắc là
đến cứu chẳng sai”. Nghĩ rồi thắp hương lạy vái, xin Ngươn quân giáng hạ, chỉ
nẻo tu hành. Vái vừa dứt lời, nghe Đẩu Mẫu ngươn quân ở trên mây kêu rằng: “Từ
quân[36], nay bị giam lãnh cung, khó nỗi giải thoát. Chi bằng chịu đỡ, ra rồi
sẽ trốn đi”. Huyền Nguyên thái tử và lạy và thưa rằng: “Đệ tử từ khi gặp sư phụ
chỉ nẻo tu hành lòng tôi chẳng hề sai chạy. Dầu phụ vương tôi cầm tù cho đến
chết, cũng không bỏ việc tu hành”. Đẩu Mẫu ngươn quân nói: “Ngươi có lòng mộ
đạo, song chốn nầy không phải chỗ tu hành”. Thái tử thưa rằng: ”Chẳng hay đến
đâu mà tu hành mới đặng?”. Đẩu Mẫu ngươn quân nói: “Cách thành vua tám mươi lăm
dặm, có núi Võ Đương, đến ở đó thì tu hành mới đặng”. Thái tử thưa rằng: “Tôi
bị quân canh giữ nhiều vòng, biết làm sao mà trốn đặng?”. Đẩu Mẫu ngươn quân
nói: “Ngươi nhắm mắt lại, ta làm phép đem đi”. Thái tử vưng lời nhắm mắt. Nghe
gió thổi đùng đùng.
Đẩu Mẫu ngươn quân đem Thái tử đến núi Võ Đương,
bảo mở con mắt ra. Thấy non tiên xinh tốt. Thái tử lạy Đẩu Mẫu ngươn quân mà
kêu bằng thầy. Mình chịu làm đệ tử. Đẩu Mẫu ngươn quân dạy Thái tử theo phép tu
hành. Thái tử học qua liền hiểu.
Nòi về Trịnh Tài thấy mất Thái tử, vào tâu lại
vân vân. Tịnh Lạc quốc vương giận quá, truyền chém Trịnh Tài. Rồi ngồi buồn cúi
mặt. Bá quan tâu rằng: “Nếu Bệ hạ muốn kiếm Thái tử, xin xuống chiếu khắp nơi,
nếu ai biết Thái tử ở đâu thì báo tin, sẽ đặng thưởng vàng một ngàn lượng. Nếu
ai nuôi Thái tử mà trả lại, thì đặng phong quan. Như vậy chắc có người tìm
đặng”. Tịnh Lạc quốc vương y tấu, truyền chỉ tức thời.
Ngày kia có một người ở núi Võ Đương, họ Trần tên
Xuân, làm nghề đốn củi. Ngó thấy bảng văn, rao về việc Thái tử, thì nghĩ rằng:
“Hôm qua mình gặp một thầy đạo sĩ đi trong núi với một người trai, mặc đồ thái
tử, chắc là đó chẳng sai”. Nghĩ rồi liền lãnh bảng. Quan giữ bảng liền dẫn Trần
Xuân vào đền.
HỒI THỨ TÁM
Thái tử Huyền Nguyên chừa vá
Khi ấy đương buổi chầu, quan giữ bảng vào tâu
rằng: “Có tiều phu Trần Xuân ở núi Võ Đương lãnh bảng, tôi đem vào ra mắt thiên
nhan”. Tịnh Lạc quốc vương truyền chỉ đòi vào. Tiều phu Trần Xuân đến sân chầu,
tung hô xong xả. Tịnh Lạc quốc vương phán hỏi rằng: “Khanh thấy Thái tử hay
sao, mà dám lãnh bảng?”. Trần Xuân quỳ lạy tâu rằng: “Tôi thấy có một người con
trai đi với đạo sĩ vào núi Võ Đương, nên tôi hồ nghi là Thái tử” Tịnh Lạc quốc
vương phán hỏi rằng: “Khanh thấy Thái tử hay sao, mà dám lãnh bảng?” Trần Xuân
quỳ lạy tâu rằng: “Tôi có thấy một người còn trai đi với đạo sĩ vào núi Võ
Đương nên tôi hồ nghi là Thái Tử” Tịnh Lạc quốc vương phán rằng: “Như vậy thì
khanh dẫn đường, đặng trẫm sai chỉ huy Thang Bá, hiệu úy Huỳnh Chung, dẫn năm
trăm ngự lâm quân, vào núi Võ Đương, kiếm đặng Thái Tử về Trào, thì quả nhân
trọng thưởng”. Trần Xuân tạ ơn. Tịnh Lạc quốc vương sai tướng binh đi theo như
lời đã phán.
Nói về Trần Xuân dẫn quan quân vào núi Võ Đương,
thấy Thái Tử chừa hai cái vá, ngồi trên thạch bàn trơ trơ. Quan quân đồng lạy.
Thang Bá, Huỳnh Chung đồng bẩm rằng: “Chúng tôi vâng chỉ, thỉnh điện hạ về
trào”. Thái Tử làm thinh không nói lại. Thang Bá, Huỳnh Chung áp lại bồng Thái
Tử, xảy nghe gió thổi đùng đùng, tối tăm trời đất đá trên núi lở xuống, cát bay
vào con mắt mở không ra. Quan quân kinh hãi, nhắm mắt chạy về như tên bắn.
Nói qua Tịnh Lạc quốc vương thấy quan quân chạy
về xơ xãi, liền phán hỏi rằng: “Các khanh gặp Thái Tử hay chăng?”. Thang Bá,
Huỳnh Chung quỳ lạy tâu rằng: “Chúng tôi đến núi Võ Đương, thấy Thái Tử ngồi
trên bàn thạch. Chúng tôi lạy theo lễ, rước Thái Tử không về. Chúng tôi thấy
Thái Tử làm thinh, túng phải tùng quyền áp lại. Chẳng ngờ gió lớn quá, tối tăm
trời đất, đá lở cát bay, nên chúng tôi về chịu tội” Tịnh Lạc quốc vương phán
rằng: “Trẫm miễn tội cho các khanh. Hôm sau trẫm bảo Trần Xuân dẫn lộ, tuyển ba
ngàn ngự lâm quân, theo bá quan đi rước Thái Tử”. Thang Bá, Huỳnh Chung đồng tạ
ơn.
Hôm sau bá quan vào núi Võ Đương, thấy Thái Tử
ngồi trên bàn thạch. Bá quan làm lễ. Thái Tử nói: “Nhọc công bá quan lên núi,
chẳng hay thương nghị việc chi?”. Bá quan bẩm rằng: “Chúng tôi vưng thánh chỉ,
rước thiên tuế về trào”. Thái Tử nói: “Ta đã xuất gia rồi, lẽ nào bỏ đạo mà về
tục?”. Bá quan đồng bẩm rằng: “Thiên tuế mới đi tu mà trước đã mang tội bất hiếu.
Nếu thiên tuế theo đạo mà không về, thì hoàng đế nhớ thương mà sinh bịnh. Vả
lại hoàng đế tuổi cao tác lớn, một mai chầu trời, biết ai làm trưởng nam đầu
tang tóc chế, lấy ai kế vị ngôi trời? Chi cho khỏi thiên hạ luận rằng: Từ quân
bỏ cha quên chúa, không đoái hoài cơ nghiệp tiên hoàng. Như vậy thì thiên tuế
ti chưa thành tiên, mà trước đã thành danh bất hiếu chăng? Chúng tôi trước sau
cũng làm tôi con thiên tuế, nên phải bẩm cạn lời, xin Đông cung xét lại? Thái
Tử nghe nói động lòng rơi lụy mà rằng: “Chuyện ấy ta đã hỏi gia sư rồi. Thầy ta
nói: “Nội năm nay phụ vương sẽ sinh đặng một trai, ngày sau kế vị. Còn số ta
không đặng làm vua nên phải đi tu cho thành chánh quả. Xin các khanh về tâu lại
rằng: “Đạo con xin cam chịu tội với cha mẹ, ráng tu cho thành đạo sau sẽ rước
cha mẹ về trời, chớ phần kế vị năm sau sẽ có Đông cung, xin phụ vương, mẫu hậu
đừng ưu phiền mà kém hao long thể. Còn bá quan đặng trung thì mất hiếu, huống
chi ta là kẻ xuất gia? Dầu thiên hạ dị nghị thế nào ta cũng phải chịu. Miễn các
khanh trọn ngay cùng chúa, sau em ta kế vị, các khanh cũng phò hộ cho hết lòng.
Chớ phần làm vua trời đã định cho em ta, dầu ta có về trào cũng phải lụy, chi
bằng tu luyện cho thành tiên, sẽ bảo hộ nhà nước. Thôi, các khanh về tâu lại
cho đủ điều”. Bá quan thấy Thái tử nói hết lời, không dám làm võ như khi trước,
túng phải từ tạ lui về, Thái tử cũng cứ ngồi như cũ.
HỒI THỨ CHÍN
Thái tử lánh sắc đi một hồi
Nói về Tịnh Lạc quốc vương lâm triều, bá quan văn
võ quỳ tâu hết các việc Thái tử đã dặn, Tịnh Lạc quốc vương phán rằng: “Thiệt
như lời Thái tử, thì không về cũng chẳng trách chi, các khanh nói thế nào cũng
rước không đặng. Song trẫm không chắc sang năm sinh đặng một trai, ngặt Thái tử
quyết lòng xuất gia, dầu đi rước cũng vô ích, vậy trẫm phong Trần Xuân làm Tuần
kiểm và thưởng bá quan mỗi vị một bậc, để coi lời hiệu nghiệm ra thể nào”. Bá
quan và Trần Xuân tạ ơn.
Thiệt năm sau Thiện Thắng hoàng hậu có thai, sinh
đặng một trai, đặt tên là Huyền Hư thái tử. Vua quan đồng mừng rở mới tin lời
Huyền Nguyên thái tử nói không sai. Rốt lại sau Huyền Hư thái tử kế vị.
Nói về Huyền Nguyên thái tử tu tại núi Võ Đương
đã hai mươi năm, ban ngày ngồi trên bàn thạch. Lúc trời nắng, hoặc ban đêm thì
vào hang đá ẩn mình.
Sau núi ấy có một bà Đương Sơn thánh mẫu, ngồi
ngẫm nghĩ rằng: “Diệu Lạc thiên tôn có dặn mình ở sau núi mà tu hành coi chừng
thái tử Huyền Nguyên luôn thể. Song hai chục năm nay Thái tử Chân tu, không sa
mê sắc dục; thần thông luyện đã cao. Chi bằng đêm nay ta tới thử Thái tử xiêu
lòng thì làm vợ chồng cũng xứng đôi, sẽ dầy duyên thần thông, đi dạo trong
thiên hạ cũng tốt:. Nghĩ rồi liền hóa ra một người mỹ nữ, nhan sắc quá tiên
nga. Đợi lúc huỳnh hôn đi ngang động kêu rằng: “Sư phụ ôi! Xin cứu tôi làm
phước”. Và thương khóc chỉnh ghê.
Lúc này Thái tử đã vào hang đá mà ngồi. Nghe
tiếng khóc la bước ra xem thử. Ngó thấy một người gái tốt, kinh hãi hỏi rằng:
“Cô ở đâu tới đây trong lúc huỳnh hôn, hãy về cho chóng?”. Nàng ấy thưa rằng:
“Tôi qui ninh[37] mà đi lạc đường, rủi lại trời thêm tối. Xin thầy làm phước, cho
tôi tá túc một đêm. Rạng đông tôi sẽ thăm mẹ tôi, vì nghe tin gia mẫu bệnh
nặng”. Thái tử nói: “Đây là chỗ tu hành, không có nơi tá túc. Vả lại hang đá
nhỏ và hẹp, một mình tôi nằm cũng chật rồi, có chỗ đâu cho cô nghỉ? Lời xưa
nói: Nam
nữ thọ thọ bất thân. Rất đỗi con trai con gái đưa vật chi còn lựa nơi mà để,
không dám trao tay thay. Huống chi là ban đêm, gần nhau sao phải, trời cũng còn
sáng, đi cũng thấy đường, xin cô kiếm nhà khác mà tá túc, ngày mai sẽ lên
đường”. Nàng ấy nói: “Thiếp là phận đàn bà con gái, ngủ đêm nhà trần tục sao
nên, bởi thầy Chân tu nên tôi mới dám tá túc. Vả lại tôi có chứng đau bụng, nếu
đi xa dầm sương ngủ lạnh, e bệnh phát thình lình. Xin thầy cho tá túc làm
phước”. Thái tử trở vô động làm lãng, nàng ấy ngồi năn nỉ hoài.
Giây phút nàng ấy rên la rằng: “Trời ôi! Nếu đau
bụng đêm nay, thì phải chết!”. Rên ban đầu vừa vừa, sau rên lớn lắm. Thái tử
nghĩ thiệt rằng: “Nếu mình để cho nó dầm sương đến đổi phát bệnh mà chết, thì
thất đức vô cùng”. Túng phải bước ra mà nói rằng: “Thôi, cô vô động mà nghỉ”.
Nàng ấy ôm bụng, gượng bước vào trong hang đá nằm ngay. Thái tử ở ngoài trời
chịu lạnh. Nàng ấy cứ rên tới, và kêu lớn rằng: “Sư phu ôi! Xin cứu mạng tôi
làm phước”. Thái tử nghe kêu văng vẳng bước lại cửa động hỏi rằng: “Cô bây giờ
bệnh nhẹ hay chưa?”. Nàng ấy khóc và nói rằng: “Tôi lạnh quá chắc là đau bụng
phải thêm mãi, xin thầy cứu mạng làm ơn”. Thái tử nói: “Không hề chi, cô đừng
rên la vô ích, để tôi vác đá lấp cửa động, thì bớt lạnh, ráng đợi mai sẽ kiếm
thuốc thang”. Nàng ấy nói: “Không đặng đâu, hơi đá gần càng lạnh hơn nữa. Xin
thầy ngồi áng miệng hang cho khuất gió, gần hơi người thì ấm hơn”. Thái tử thấy
năn nỉ hoài, túng phải lại ngồi day lưng vào miệng hang áng gió. Nàng ấy cử rên
mãi, la lạnh la đau. Thái tử làm thinh không hỏi tới. Nàng ấy nói: “Phải chi
thầy cho tôi vào động khi mới tới, có đâu bị lạnh mà phát bệnh này, nay xin
thầy làm phước úm tôi một đêm, thiệt là ơn cứu tử”. Thái tử nói: “Tôi tu hành
hai mươi năm nay, chẳng hề gần nữ sắc. Cùng chẳng đã mới phải gần cô, lẽ đâu
dám kề dựa”. Nàng ấy và rên và khóc, năn nỉ rằng: “Sư phu tu hành cứu nhân độ
thế, nở nào bền lòng chặt dạ, không cứu mạng người?”. Cứ nói hoài như vậy. Thái
tử thấy cũng cảm thảm, động lòng thương xót, hỏi rằng: “Cô thuở nay đau bệnh
này uống vật chi mà hết?”. Nàng ấy nói: “Bệnh tôi thuốc trị hoài không hết. Khi
ở nhà mới ướm đau thì chồng tôi nhận tay trên bụng một hồi liền mạnh, như khi
nào đau quá, chồng tôi phải lấy bụng dằn ép một hồi mới hết. Nay lỡ cùng đường
không ai làm như vậy, nên nó thêm hoài. Phải chi thầy lấy lòng từ bi, nhận giùm
một đôi cái họa may nhẹ bớt, ngày mai đặng thấy mặt mẹ tôi, thì ơn thầy như
trời đất”. Thái tử nói: “Tôi là người tu luyện, lẽ nào dám động tới mình cô?
Thiệt giúp không đặng”. Nàng ấy nói: “Cứu đặng một mạng sống, hơn lập bảy cảnh
chùa, thầy cũng thường nghe biết. Vả lại có kinh có quyền, việc làm phước luận
kinh sao đặng, rất đỗi chị dâu té xuống sông, em chồng còn phải vớt. Huống chi
cứu một mạng người, không phải thầy có lòng tà tây, mà sợ tội lệ. Nếu thầy
không ra tay nhận giùm vài cái thì tôi chắc chết mà thôi, tôi chết xuống suối
vàng, thầy cũng mắc nhân quả”. Thái tử nghe nói cũng phải, cùng chẳng đã xòe
tay nhận giùm ít cái, nàng ấy cứ rên siết la chết hoài. Thái tử nói: “Nhận
không bớt nhận hoài cũng vô ích”. Nàng ấy nói: “Khi mới phát thì hết được, nay
đã quá rồi, nên không hiệu. Thầy làm ơn thì làm cho trót, xin nằm sấp lên bụng
tôi, một chút chắc phải hết”. Thái tử nghe nói lắc đầu than rằng: “Cô chế thì
cô chịu tôi không lẽ làm như vậy”. Nói rồi bỏ ra ngoài động than rằng: “Mình bỏ
nước lìa nhà xa cha cách mẹ, tu hành hai chục năm nay, không gặp kẻ đồng đạo mà
chuyện trò, lại bị oan gia vương vấn. Thế ở đây tu cũng không thành, phải bỏ
núi này mà đi chỗ khác”. Nói rồi đi xuống núi.
Khi ấy Đương Sơn thánh mẫu kinh hãi nghĩ rằng:
“Mình chọc giận Thái tử tức mình bỏ núi nầy mà đi về trần tục; chắc mình mang
tội mười phần. Bởi Thái tử tu đã hai chục năm, gần thành chánh quả. Nay ta phá
cho về tục, thì công tu trước hết rồi. Nếu Diệu Lạc thiên tôn hay ra chắc mình
phải đọa. Phải làm thế nào cho thái tử trở lại mới xong”. Nghĩ rồi biến ra một
bà già lấy cục đá hóa ra khúc sắt, rồi đằng vân đi chận đầu Thái tử.
Nói về Thái tử thừa dịp trăng tỏ nên đi luôn,
khỏi chân núi, thấy một bà già, cầm khúc sắt mài vào tấm đá. Thái tử lấy làm
lạ, đứng coi sửng rổi hỏi rằng: “Bà mài sắt làm chi vậy?”. Bà ấy nói: “Con cháu
nội tôi kkhông kim may áo, nên tôi mài sắt cho nên kim”. Thái tử cười rằng:
“Cục sắt bây lớn, mài mấy năm thành đặng cây kim, bà đừng làm sự mỏi mệt vô
ích”. Bà ấy nói: “Đã biết lâu lắc lắm, song đã hứa lỡ với cháu, không lẽ nuốt
lời. Đã mài mấy ngày rày, không lẽ ngả lòng mà bỏ. nếu bỏ thì uổng công trước
không ai bắt đền. Nên phải bền chí dày công, chày ngày phải nên việc”. Thái tử
liền bỏ đi luôn.
Đương Sơn thánh mẫu thấy Thái tử đi tới, không
chịu trở lên non, nên biến hình ông già, đằng vân đón đầu cách chừng ba dặm.
Ngồi dựa khe cầm dùi đục đá cộp cộp.
Khi ấy Thái tử đi hồi lâu tới đó, ngó thấy lấy
làm lạ hỏi rằng: “Ông tuổi tác dường này, đục đá làm chi vậy?”. Ông ấy trả lời
rằng: “Tôi già cả, làm ruộng bị hạn hoài nên phải đục đá này cho thông nước khe
mà làm ruộng”. Thái tử cười rằng: “Vừng đá chần vần, ông đục chừng nào cho
lủng?”. Ông già ấy nói rằng: “Lòng bền đá phải lủng, công dày việc phải nên.
Tôi đục nó cả tháng rồi lẽ nào nghe lời chú ngả lòng mà bỏ? Tôi bền chí cũng có
ngày nên việc, nếu vì một lời chú mà bàn đồ nhi phế, thì uổng công mệt nhọc bấy
lâu”. Thái tử nghe nói ngẫm nghĩ: “Mình mới đi một đổi đường, gặp bà già mài
sắt, ông già đục đá đều chẳng vì một lời nói mà bỏ công trước. Còn mình tu hành
hai mươi năm nay, nghĩ nào giận một đứa đàn bà, mà bỏ công tu trước. Chi bằng
trở lại núi tu hành, cho thành chánh quả”. Ngĩ rồi liền trở lại.
Khi ấy Đương Sơn thánh mẫu thấy Thái tử trở về
động cũ, lòng mừng rỡ mười phần. Liền hiện nguyên hình trở về sau núi Võ Đương
tu luyện.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn ở trên mây ngó xuống,
thấy Thái tử đã thành tiên. Song ngũ tạng chưa đặng tinh sạch vì còn ăn trái
cây uống nước suối. Nên Diệu Lạc thiên tôn niệm chú hóa hai con buồn ngủ bay
đậu trên mí con mắt Thái tử, Thái tử ngủ mê.
Khi ấy nhằm lúc giờ ngọ. Diệu Lạc thiên tôn kêu
một vị thần tướng, cầm gươm giáng hạ theo mình. Bảo thần tướng vén áo Thái tử,
mổ bụng lấy ruột và bao tử ra, đem xa xa, bỏ dưới hang đá, lấy đá đậy lại. Rồi
đưa một cái áo tiên, hóa ra bao tử mà thế vào. Lại lấy một sợi dây đai, hóa ra
ruột mà may lại, rồi hàn lành lẻ như xưa. Diệu Lạc thiên tôn lấy một hột thuốc
kim đơn bỏ vào miệng Thái tử, rồi truyền thần tướng lui về.
Còn Diệu Lạc thiên tôn thâu hai con buồn ngủ,
Thái tử thức dậy thấy thầy ngồi một bên. Bởi Diệu Lạc thiên tôn biến ra hình
đạo sĩ, khi trước mạo hiệu xưng là Đẩu Mẫu ngươn quân cho Thái tử dễ hiểu, nếu
xưng hiệu Diệu Lạc, thì Thái tử không từng nghe danh. Nên bây giờ Thái tử thấy
Diệu Lạc thì biết thầy mình. Trong ý cũng tưởng là Đẩu Mẫu ngươn quân, chớ
không biết là Diệu Lạc thiên tôn, bởi thầy không cắt nghĩa.
Khi ấy Thái tử giật mình bước xuống, lạy Diệu Lạc
thiên tôn mà bạch rằng: “Đệ tử không hay thầy đến, nên chẳng tiếp nghinh xin
thầy từ bi thứ tội!”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Ta khi trước giảng kinh có cắt
nghĩa, cấm ban đêm con không đặng ngủ thay. Sao ngươi lại ngủ như vậy?”. Thái
tử bạch rằng: “Từ khi tôi thọ giáo đến nay, chẳng hề dám ngủ. Không biết vì cớ
nào hôm nay lại hôn mê; làm như bất tỉnh nhơ sự”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Đừng
có như vậy nữa!”. Thái tử bạch rằng: “Từ này sắp sau, tôi chẳng dám nằm”. Diệu
Lạc thiên tôn nói: “Thầy cho ngươi một cây gươm báu, nếu gặp yêu tinh nhiễu
hại, rút gươm ra thì nó phải đi. Ngươi ráng tu hành vài mươi năm nữa, thì thành
tiên về chốn thiên cung”. Nói rồi đằng vân bay lên mây. Thái tử lạy đưa, rồi
trở vào động ngồi luyện. Càng ngày càng nhẹ mình không đói không khát nước, ngó
lên trời thấy vừng mây ngũ sắc ngay trên đầu, đi đâu cũng theo che mãi. Thái tử
mừng rỡ, giở kinh luật đọc hoài, cầm thú cũng hay tới nghe tụng kinh.
Cách ít năm cây tre ở gần động thành tinh, vì nó
thường nghe tụng kinh nên biết biến hóa.
Ngày kia con tinh ấy giả làm gái tốt, ban chiều ở
xa xa đi tới. Đến Thái tử thì trời đã huỳnh hôn. Nàng ấy và khóc và thưa rằng:
“Xin sư phụ cứu mạng”. Thái tử hỏi: “Cô đến đây có chuyện chi?”. Nàng ấy thưa
rằng: “Chồng tôi ép lòng tôi, muốn gả cho kẻ giàu sang mà lấy bạc vàng châu
báu. Tôi thề nguyền không chịu, chồng tôi hăm giết bỏ, nên lén trồn về mẹ tôi.
Chẳng ngờ lạc đường lại trời mưa đêm tối, không chỗ nào tá túc, xin thầy cho
vào động ngủ nhờ một đêm, mai sáng tôi lđi lập tức “. Thái tử nói: “Động ta hẹp
hòi, lại có kinh sách, đàn bà vào đó sao nên” nhứt định không cho tá túc. Nàng
ấy làm ngang chạy vào động. Thái tử nghi là yêu quái, liền rút gươm ra dá gươm
mà dọa. Không dè gươm linh bạy lại chém nàng ấy rụng đầu. Thái tử kinh hãi, coi
lại là cây tre đứt hai mới biết nó là cây tre lâu năm thành tinh, đến làm nhăn
mà chết.
Cách hai mươi năm nữa, có một con lươn cái thành
tinh biến ra một người đàn bà, bận đồ chế, đến lạy Thái tử khóc ròng. Thái tử
lấy làm lạ hỏi rằng: “Cô ở đâu, nhân chuyện chi mà khóc than, đến lạy bần
đạo?”. Nàng ấy bạch rằng: “Nhà tôi sáu người, bị thiên thời chết hết bốn mạng.
Còn hai mẹ con tôi, mà nay tôi cũng xuông nữa. Xin thầy đến cứu mạng con tôi
làm phước, dầu tôi thác xuống chín suối cũng còn cám ơn thầy”. Thái tử hỏi:
“Nhà cô cách chừng mấy dặm?”. Nàng ấy bạch rằng: “Cách chừng năm dặm mà thôi”.
Thái tử hỏi: “Xóm nàng ở có đông chăng?”. Nàng ấy bạch rằng: “Có một cái nhà
tôi trọi trọi”. Thái tử nói: “Bần đạo là kẻ tu hành, lẽ nào đến nhà đàn bà gái
góa mà không xóm?”. Nàng ấy năn nỉ rằng: “Cứu mạng người là trọng, miễn là lòng
ngay thẳng, nghỉ nào mà sợ hiềm nghi?”. Thái tử từ chối hoài, nàng ấy khóc lạy
nhiều phen, Thái tử ngồi làm thinh làm thế. Nàng ấy năn nỉ đến đỏ đèn, túng
phải nói rằng: “Sư phụ chẳng chịu đi, không lẻ ép. Ngặt bây giờ trời đã tối,
một mình tôi chẳng dám đi về”. Thái tử nói: “Cô đi về cho mau, cũng không đến
nỗi tối”. Nàng ấy nói: “Đường từ nhà tôi tới chân núi thì tôi nhớ đường. Song
từ đây xuống chân núi, tôi đã quên đường, xin sư phụ làm ơn, đưa xuống một
đỗi”. Thái tử túng phải vào động lấy gươm linh mang vào lưng rồi đi dẫn lộ.
Nàng ấy đi một đỗi, liền vịn vai Thái tử mà nói rằng: “Thầy ôi! Tôi mỏi chân
quá, đi không nỗi, xin thầy dìu dắc xuống chân núi cám ơn”. Thái tử kinh hãi
đáp rằng: “Bần đạo xuất gia hơn bốn chục năm, không hề động tới đàn bà con gái.
Lẽ nào dìu dắt cho đặng, xin cô chậm chậm theo sau”. Nàng ấy nói: “Thầy nói
cũng phải, song tôi mỏi chân như dần, đi về không nổi. Như thầy không chịu dắt,
thì tôi theo về động tá túc một đêm, mai tôi về một mình cũng đặng”. Thái tử
lắc đầu hoài. Nàng ấy nói: “Dắt thầy cũng không chịu dắt, mà cũng không cho về
động tá túc, tôi biết tính làm sao? Vậy thì thầy ấp yêu tôi một hồi, tôi ráng
về động cũng đặng”. Thái tử thấy nó nói trây quá, liền quay lại một nước. Nàng
ấy thấy Thái tử không màng, nổi giận chạy theo ôm ngang mà nói rằng: “Ấy là tại
thầy làm dày, đừng trách tôi làm hỗn. Lẽ nào hoa kia cố ý mà bướm nọ không
tình”. Và nói và ôm cứng ngắt. Thái tử bị nó đeo nặng như cục đá. Biết là yêu
quái, liền rút gươm ra. Nàng ấy biến mất. Thái tử trở về động, tu luyện như
thường.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn thấy Thái tử Chân tu,
đã thành chánh quả. Liền vào đền tâu rằng: “Đãng Ma thiên tôn giáng sinh làm
thái tử, nay tu luyện đã thành, xin Bệ hạ cho thần tướng rước về phong chức”.
Thượng Đế đẹp ý, sai rồng xanh, rồng trắng và rồng đỏ, rồng đen, rồng vàng đi
với Diệu Lạc thiên tôn, Diệu Lạc thiên tôn lãnh chiếu chỉ, Thái Bạch kim tinh
bưng ấn, trong ấn chạm bốn chữ: Ngọc Hư sư tướng. Quyện Liêm tướng Thạch Cốc
cầm cờ, đồng xuống núi Võ Đương.
Khi ấy Thái tử đang gở đầu chưa rồi, thấy ngũ
long và thầy với hai vị thiên sứ đến. Diệu Lạc thiên tôn truyền Thái tử quỳ
nghe đọc chiếu, sơ lược rằng: “Khanh tu nhiều đời, công lao trọng lắm. Nay trẫm
sai Diệu Lạc thiên tôn vâng chiếu chỉ, phong khanh làm chức Ngọc Hư sư tướng
Bắc Phiên Huyền Thiên Thượng Đế. Cho cai trị ba mươi sáu vị thiên tướng. Mỗi
năm ngày mùng chín tháng chín, và hai mươi lăm tháng chạp, đi giáng hạ xem xét
kẻ nhân gian dữ lành. Nay trẫm triệu khanh về cung Thái Dương, cha mẹ ông bà
cũng về thượng giới”. Thái tử tạ ơn và lạy thầy. Rồi đứng dậy gở đầu, thì tóc
đã cứng ngắt như đá. Thái tử kinh hãi, Diệu Lạc thiên tôn cười rằng: “Chiếu
trời tới thì đã thành rồi, sửa hình dung sao đặng mà gở, phải bỏ tóc xả luôn
luôn”. Thái tử tạ ơn. Rồi cưỡi rồng bay về thượng giới.
Khi ấy Diệu Lạc thiên tôn dẫn Thái tử vào lạy ra
mắt Thượng Đế và tâu rằng: “Huyền Nguyên thái tử tu tại núi Võ Đương, vâng chỉ
lãnh chức, ra mắt thiên nhan”. Thượng Đế bước xuống ngai, đỡ Thái tử dậy, mời
ngồi. Đãi yến xong xả, đưa về cung Thái Dương.
Khi Thái tử đến cung Ngọc Dương các vị thiên quân
ra mắt Thái tử, thấy phía bắc có hai ngọn núi khói đen bay lên, Thái tử lấy làm
lạ. Xảy có Diệu Lạc thiên tôn đến, Thái tử nghinh tiếp. Diệu Lạc thiên tôn nói:
“Bây giờ thầy nói thiệt cho mà nghe: Đồ đề khi trước là Đãng Ma thiên tôn bởi
ba mươi sáu vị thiên tướng trốn xuống phàm, nên đồ đệ phải giáng sinh tu hành
cho thành, đặng thâu ba mươi sáu thiên tướng đem trở về cung Thái Dương như cũ.
Bởi cớ ấy nên thầy mạo hiệu Đẩu Mẫu ngươn quân mà độ cho thành tiên”. Nói rồi
giã từ lui gót. Thái tử nghe nói lấy làm lạ, hỏi các vị thiên quân rằng: “Cứ
như lời thầy ta nói, thì ba mươi sáu tướng chưa về đây, còn hai ngọn khói nào
bay lên đó?”. Các vị thiên quân bạch rằng: “Một ngọn oán khí, và một ngọn yêu
khí, bởi vua Tùy Dương đế vô đạo, sát hại nhiều mạng thác oan, nên mới sinh
ngọn oán khí; còn yêu khí là ba mươi sáu vị thiên tướng trốn xuống phàm làm
yêu, cho nên khí yêu nó chiếu lên”. Thái tử nói: “Chẳng hay làm sao cho hết yêu
khí và oán khí?”. Các thiên quân bạch rằng: “Nếu có vị nào thần thông ra công
xuống trung giới thâu oán khí và yêu khí, thì thiên hạ thái bình”. Thái tử nói:
“Bộ tướng của ta xuống thế làm yêu, thì ta phải xuống phàm thâu lại, sẵn dịp
tâu với Bệ hạ, cho thâu oán khí luôn thể”. Các thiên quan mừng rở, từ giả lui
về.
Bửa sau Ngọc đế lâm triều. Thái tử tâu về sự ấy.
Ngọc đế mừng quá phán rằng: “Khanh sẵn lòng xuống phàm thâu nhị khí, trẫm phong
khanh làm thêm một chức: Bắc phương Chân Võ đại tướng quân. Và ban cho một bộ
giáp vàng, với năm trăm hoàn thuốc hỏa đơn”. Phán rồi liền rót ba chén ngự tửu,
thương Chân Võ đại tướng quân. Chân Võ uống rượu rồi tạ ơn, lãnh giáp và thuốc.
Thượng Đế truyền lấy gươm thất tinh khi trước ban cho Chân Võ.
Khi ấy Chân Võ qua cung Tam Thanh thuật chuyện
phụng chỉ đi thâu nhị khí. Tham thanh hỏi: “Có ai đi với Đại tướng quân
chăng?”. Chân Võ nói: “Có một mình tôi, không biết thành công chăng? Xin ba ông
chỉ vẽ!”. Tam Thanh nói: “Không khó chi, khi trước ngươi tu chưa thành, Diệu
Lạc thiên tôn làm phép cho ngươi mê, mỗ bụng đổi bao tử và ruột cho ngươi. Lại
đem bao tử và ruột bỏ xuống hang đá, lấy đá đậy lại. Nay ruột ấy hóa ra con
rắn, bao tử hóa ra con rùa, hai con ấy đều thành tinh đi phá thiên hạ. Nếu
ngươi xuống phàm thì thâu hai con quái ấy, phong làm Qui Xà nhị tướng. Lo chi
thâu ba mưới sáu thiên tướng không xong”. Chân Võ tạ từ đằng vân hạ giáng.
HỒI THỨ MƯỜI
Chân Võ xuống phàm thâu hai tướng
Nói về Qui, Xà hai con quái ấy, ở tại động Thủy
Hỏa, bàn luận với nhau rằng: “Anh em mình ở dưới hang núi Võ Đương sinh thành.
Nay luyện phép lâu năm, thần thông quảng đại biến hóa vô cùng, chiếm cứ động
Thủy Hỏa, quy tụ tiểu yêu đã nhiều. Song còn thiếu vị phụ nhân nên chưa toại
chí. Vậy thì bảo tiểu yêu đi dọ coi con gái nhà ai dung nhan xinh tốt, bắt hai
nàng về đây, anh em mình chia nhau làm vợ”. Qui quái bàn luận cùng Xà quái
rằng: “Ta sai tiểu yêu đi kiếm, hiền đệ cũng sai một đứa tiểu yêu đi tìm. Thử
con đứa nào kiếm được trước?”. Anh bàn luận như vậy thì công bình”. Hai con
quái sai tiểu yêu đi lập tức.
Nói về đất Tào Châu, quan thái thú tại châu ấy là
Lâm Bửu, sinh được một tiểu thư là Lâm Kim Cúc, nay đã mười tám tuổi, xinh đẹp
muôn phần.
Còn suy quan[38] là Triệu Mô có một người con gái
mười sáu tuổi gọi là Triệu Hoàng Nương, nàng ấy cũng vô cùng xinh đẹp. Hai nàng
tiểu thơ ở gần nhau nên kết làm chị em bầu bạn. Ngày kia hai tiểu thư đi ngoạn
cảnh sau vườn, hai tiểu yêu xem thấy nhan sắc thì rất mừng, chạy về báo với
chúa động. Qui quái Xà quái truyền chúng nó dẫn đường đến vườn hoa nổi trận
cuồng phong, hai nàng tiểu thư với hai đứa a hoàn đều ngã xuống. Hai con quái
bồng hai nàng tiểu thư về động.
Khi lặn gió, hai đứa a hoàn chờ dậy kiếm không
đặng hai vị tiểu thư, hãi kinh vào báo lại cho chủ nhân. Lâm Bửu và Triệu Mô
sai quân kiếm không được, liền viết sớ, vào đốt tại miếu Thành hoàng.
Khi ấy Thành hoàng xem sớ, liền sai tiểu quỷ đòi
Thổ địa, Sơn thần tới mà nói rằng: “Thái thú Lâm Bửu, suy quan Triệu Mô có dâng
sớ cáo rằng: “Hai tiểu thư đi dạo hoa viên, bị trận gió bay mất, không biết yêu
quái bắt đi đâu, xin thần linh truy tróc. Bởi cớ ấy, nên ta hỏi các vị có biết
yêu quái ở đâu chăng?”. Sơn thần, Thổ địa bẩm rằng: “Trong núi chúng tôi không
có yêu quái, trừ ra núi Võ Đương có hai con yêu, chắc chúng nó bắt hai nàng
ấy”. Thành hoàng hỏi cặp yêu ấy là ai?”. Thổ địa bẩm rằng: “Một con Qui quái và
một con Xà quái”. Thành hoàng hỏi: “Cặp quái ấy căn cước ra thế nào?”. Thổ địa
bẩm rằng: “Xưa con vua Định Lạc quốc vương là Huyền Nguyên thái tử, tu tại núi
Võ Đương. Đến sau Diệu Lạc thiên tôn đổi thay trường vị cho Thái tử, bỏ trường
vị xuống hang đá đậy lại, lâu năm chày tháng, ruột hóa ra con rắn, bao tử hóa
ra con rùa, lâu ngày thành ra Xà quái, Qui quái. Chắc là cặp yêu ấy bắt hai vị
tiểu thư, vì chúng nó quy tụ tiểu yêu, khuấy phá thiên hạ lắm”. Thành hoàng
nói: “Nếu hai vị tra quả quyết như vậy, thì bảo chúng nó phải trả hai nàng ấy
về nhà”. Sơn thần, Thổ địa đồng bẩm rằng: “Cặp yêu ấy ăn thịt người vô số, thần
thông quảng đại, võ nghệ cao cường, chúng tôi đòi sao đặng?”. Thành hoàng hỏi:
“Như vậy phải tính làm sao?”. Thổ địa bẩm rằng: “Trừ ra binh trời tới vây Thủy
Hỏa động, họa may chúng nó chịu trả cùng chăng?”. Thành hoàng y lời, sai thần
binh kéo tới.
Nói qua cặp yêu bắt hai nàng về động ép việc
trăng hoa, hai nàng ấy không thuận. Xà quái muốn ăn thịt; Qui quái can rằng:
“Hiền đệ đừng nóng nảy. Muốn dùng nó làm vợ thì phải dỗ dành. Bởi vì chúng nó
là gái đồng trinh, chưa từng việc mây mưa trăng gió, lại thêm bị bắt đã hãi
hồn, khóc nước mắt chưa ráo. Lẽ nào hứng chí mà chịu thành thân. Hãy truyền a
hoàn của mình, theo hầu hạ chúng nó và khuyên lơn, nội một tháng nó tỉnh hồn,
lẽ nào không thuận”. Xà quái khen rằng: “Anh tính cao lắm, nó trốn đi đâu mà
phải sợ, trước sau cũng về tay. Mình hãy lo ăn tiệc”. Nói rồi truyền tiểu yêu
giam hai nàng sau động, rồi uống rượu đàm đạo với nhau. Giây phút thấy tiểu yêu
giữ cửa, chạy vào báo rằng: “Thành hoàng tại phủ này, nghe hai vị đại vương bắt
hai nàng ấy, nên sai thần binh đến vây cửa động, bảo trả hai vị tiểu thư thì
thôi. Bằng không ra tay phá động, giết chẳng sót một người”. Qui quái, Xà quái
nghe báo nổi giận, dẫn yêu binh ra trước cửa động mắng rằng: “Thành hoàng ngươi
tưởng mình là lớn lắm sao? Bất quá ngươi là một người con thảo tôi ngay, nên
trời đất cho làm thần mà trị tiểu quỷ. Chớ chúng ta hấp thụ khí âm dương mà
thành hình, thần thông quảng đại, ngươi dám cự với chúng ta sao? Chẳng qua
trong động thiếu hai vị phu nhân, nên lựa gái lành coi nội trợ. Sự ấy cũng
không can phạm tới ngươi. Sao ngươi dám dẫn binh đến vây động ta, quyết thị oai
làm dữ?”. Thành hoàng nói: “Yêu quái cả gan, dám bắt con quan về làm vợ. Hai
ông ấy đi cáo với ta, lẽ nào ta là một ông thần trong đình, mà bỏ qua không xử?
Hai ngươi biết lỗi thì trả hai nàng ấy cho mau, ta cũng dung cho lần thứ nhất;
bằng không trả thì ta bắt quách, đem nạp tới thiên trào, chắc hai ngươi không
toàn tánh mạng”
Khi ấy hai con quái giận quá, cầm giáo đâm liền.
Thành hoàng múa siêu đạo cự chiến. Từ giờ ngọ đánh tới tối cầm đồng. Cặp yêu
hóa phép thần thông: Qui quái biến thành hòn núi; Xà quái biến lớn như con
rồng, ở trên lưng qui phóng tới. Thành hoàng bại tẩu, hai con quái chẳng đuổi
theo, thu yêu binh vào động.
Còn Thành hoàng chạy riết về miếu, thần binh chạy
theo sau. Thổ địa bẩm rằng: “Xin lão gia đừng phiền muộn làm chi, cặp yêu ấy
thần thông, chắc đánh không lại chúng nó. Tôi mới nghe đồn, có một vị chánh
thần là Huyền Thiên Thượng Đế Chân Võ tổ sư, ông ấy vâng chỉ Thượng Đế, giáng
hạ trừ yêu. Bây giờ Chân Võ tổ sử hóa hình đạo sĩ, nghỉ trong miếu Tam Thanh;
ông này thần thông quảng đại. Nếu lão gia đến cầu đặng Chân Võ tổ sư bắt cặp
yêu chắc được”. Thành hoàng y lời tìm tới miếu.
Khi ấy Chân Võ tổ sư ở trong miếu Tam Thanh, thấy
Thành hoàng tới liền hỏi rằng: “Thành hoàng đến có việc chi?”. Thành hoàng bạch
rằng: “Hạ quan vị hai con quái ở trong động Thủy Hỏa, là Qui quái với Xà quái,
chúng nó bắt hai nàng tiểu thư là con của Lâm Bửu với Triệu Mô, hai viên quan
ấy có điệp cáo với tôi, tôi cử binh đánh không lại hai con quái ấy. Nghe nói Đế
quân giáng hạ trừ yêu, nên tôi đến cầu Đế quân từ bi cứu hai nàng ấy”. Chân Võ
tổ sư nói: “Thôi Thành hoàng về trước đi ta sẽ đến động Thủy Hỏa”. Thành hoàng
bái tạ lui về. Chân Võ tổ sư cầm gương thất tinh, đằng vân đến động Thủy Hỏa.
Lại nói tiểu yêu vào động báo lại. Hai con quái
cầm thương ra cửa động, thấy Chân Võ tổ sư bỏ tóc xả, chống gươm thét lớn rằng:
“Hai con quái đừng vô lễ, ta vâng chỉ Ngọc đế trừ yêu, hai ngươi đầu hàng kẻo
uổng tánh mạng”. Hai con quái đáp rằng: “Ngươi trên thượng giới, chúng ta ở
phàm trần, cừu oán chi mà tìm tới?”. Chân Võ tổ sư nói: “Trong luật trời đã
định: nếu loài yêu quái ăn thịt người, hoặc bắt con cái người ta, thì phải đọa
địa ngục hành hình năm trăm năm, mới được đầu thai làm lục súc. Sao chúng bay
không biết giật mình? “. Hai con quái nổi xung hỗn chiến. Chân Võ tổ sư cầm
gươm chỉ qua hướng nam, lửa cháy rần rần, Qui quái thất kinh bại tẩu. Còn Xà
quái thuộc hỏa, không sợ lửa, lướt tới hành hung. Chân Võ tổ sư cầm gươm chỉ
ngay hướng bắc nước dâng tới mênh mông. Xà quái hãi kinh chạy hoảng. Chân Võ tổ
sư vào động Thủy Hỏa, thấy hai nàng than khóc thảm thương. Chân Võ tổ sư hỏi:
“Vì cớ nào?”. Hai nàng thuật chuyện lại. Chân Võ tổ sư nói: “Hai nàng đừng khóc
nữa, ta là Chân Võ tướng quân. Ta đã đuổi Qui quái, Xá quái đều chạy mất. Hai
nàng nhắm mắt lại để ta làm phép đưa về”. Hai nàng quỳ lạy rồi nhắm mắt lại.
Chân Võ tổ sử niệm chú. Có hai vầng mây sa xuống chở hai hai nàng đưa tới nhà.
Khi ấy Lâm Bưu mừng quá, hỏi qua con rằng: “Con
bị bắt đã ba ngày, sao bây giờ trở về được?”. Lâm Kim Cúc thuật chuyện đủ đầy.
Lâm Bưu hỏi: “Ông Chân Võ tướng quân cứu con khi nãy, hình dung ăn mặc ra thế
nào?”. Lâm Kim Cúc thưa rằng: “Chân Võ tướng quân, môi son răng trắng, mặt
ngọc, râu ba chòm, bỏ tóc xả. Trong bận áo rộng đen, mang giáp vàng, nịt đai
ngọc, tay cầm gươm thất tinh”. Kế Triệu Mô bước vào thuật chuyện con mình nhờ
Chân Võ tướng quân cứu khỏi. Hai đường thuật chuyện giống nhau. Triệu Mô nói:
“Nên lập miếu thờ mới phải”. Lâm Bưu nói phải. Truyền quân lập miếu tại Bắc
môn, trong miếu có lên cốt Chân Võ tướng quân mà thờ. Nội nhà hai ông quan ấy
đều vào miếu tạ ơn. Ai cầu chuyện chi cũng linh hiển, đến đời nay cái miếu ấy
hãy còn linh hiển như xưa.
Nói qua nhị quái bị Chân Võ tổ sư đánh đuổi,
chúng nó bỏ động bại tẩu, không chỗ mà nương. Xà quái nói: “Anh em mình chạy đã
đói rồi, phần không chỗ ở, chi bằng anh hóa làm chiếc thuyền, tôi hóa cây sào,
đậu dựa mé khe. Đợi có ai xuống thuyền qua khe, sẽ nhận giữa dòng mà đở đói”.
Qui quái khen phải, y kế mà làm.
Về phần Chân Võ tổ sư ở trên mây thấy hai con
quái hóa ra ghe sào, càng nực cười lắm. Tổ sư liền biến thành đạo sĩ đi tới mé
khe. Nhảy xuống thuyền nắm sào mà chống, Qui quái mừng thầm, đợi tới giữa khe
sẽ lặn. Chẳng ngờ Tổ sư biết trước rút gươm thất tinh ra, hóa cao muôn trượng.
Xà quái hãi kinh, nhảy xuống khe. Còn Qui quái hiện hình lặn xuống, bị Tổ sư
đạp trên lưng, tuy Qui quái lặn tới đáy khe, mà chạy không đặng.
Khi ấy Xà quái tính kế, liền lên mây kêu lớn
rằng: “Có thiên sứ đem chiếu trời tới đây”. Tổ sư ngở thật, thâu phép lại mà
tiếp chỉ. Thừa cơ Qui quái chạy thoát. Xà quái cũng biến đi, té ra không có
chiếu chỉ chi hết. Tổ sư biết mắc mưu, ăn năn không kịp. chẳng biết hai con
quái trốn ngõ nào. Cứ đi thơ thẩn kiếm theo dựa mé khe.
Nói về hai con quái chạy đến một cái giếng,
thương nghị với nhau rằng: “Anh em mình xuống đây mà trốn, đợi có ai gánh nước
sẽ bắt ăn thịt”. Nói rồi nhảy xuống giếng. Thổ địa nghe nói hãi kinh, tính đi
cáo với Thành hoàng bổn xứ. Đi giữa đường gặp Tổ sư. Tổ sư hỏi: “Thổ địa có
thấy Qui quái, Xà quái trốn đâu chăng?”. Thổ địa thuật chuyện lại. Tổ sư nói:
“Ngươi đừng đi cáo làm chi, hãy dẫn ta đến giếng ấy”. Thổ địa dẫn tới giếng, Tổ
sư cầm gươm chỉ hướng nam rồi hướng bắc, nước lửa tới trùng trùng. Hai con yêu
bại tẩu, nhập vào ngó sen. Tổ sư biết rõ, nhỗ ngó sen cầm trên tay mà bóp, cộm
cộm như hình hạt thóc, ấy là cặp quái hiện nhỏ. Cặp quái hãi kinh xuất hình
chạy ra, trốn vào cây lựu bạch. Tổ sư chỉ gươm hóa nước lửa. Hai con quái kêu
khóc vang tai. Tổ sư hỏi: “Chúng bay chịu đầu hàng chăng?”. Hai con quái chịu
hàng đầu. Tổ sư thâu hết nước lửa. Hai con quái ra lạy. Tổ sư nói: “Nếu chúng
bay thiệt tình quy thuận thì hiện nguyên hình cho ta xem thử”. Cặp quái hiện
nguyên hình là mãng xà một sừng vảy vàng hực, với con linh qui ba con mắt, ba
cái đuôi, trên lưng có bát quái. Tổ sư lấy hai hạt hỏa đơn bảo hai con quái
nuốt, rồi nói rằng: “Hai ngươi đã nuốt hỏa đơn vào bụng, nếu ngày sau mong lòng
làm phản, thì lửa trong bụng cháy ra”. Hai con quái đều chịu phép, Tổ sư bảo
chúng nó theo về Thiên tào, dẫn vào tâu với Ngọc đế. Ngọc đế phong cho Qui Xà
làm Thủy Hỏa nhị tướng, theo phò Tổ sư. Tổ sư và Thủy Hỏa nhị tường tạ ơn. Ngọc
đế phán hỏi rằng: “Hơi đen bay thấu thiên cung, ai chịu đi thâu hắc khí?”. Tổ
sư xin đi. Ngọc đế đẹp ý thưởng ba chén ngự tửu. Tổ sư uống rượu rồi tạ ơn, dẫn
Thủy Hỏa nhị tướng đến cung Tam Thanh ra mắt.
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Tổ sư thu Hắc khí
Nói về Chân Võ tổ sư dẫn Thủy Hỏa nhị tướng vào
cung Tam Thanh ra mắt. Ba ông Tam Thanh hỏi rằng: Huyền Thiên Thượng Đế đến
chơi hay có việc chi?”. Chân Võ tổ sử bạch rằng: “Đệ tử thâu Thủy Hỏa nhị
tướng, đem về chầu Thánh chúa. Nay vâng chỉ xuống phàm thâu hắc khí, song chưa
rõ hơi đen ấy về đâu mà đi thâu nó, nên đến hỏi thăm”. Thượng thanh nói: “Hắc
khí mối nó ở hướng Bắc, rồi tỏa ra bốn phương, không phải một chỗ ấy là yêu
tinh làm loạn mà sinh ra”. Chân Võ tổ sư bạch rằng: “Chẳng hay vị nào sinh hắc
khí ấy?”. Thượng Thanh nói: “Ấy là thần Hắc Sát, xưng hiệu Hắc Diện sơn vương.
Nó có bảy tên đại tướng: thứ nhất là Lý Tiện, thứ nhì là Bạch Khởi, thứ ba là
Lưu Đạt, thứ tư là Trương Ngươn Bá, thứ năm là Thân Sĩ Quí, thứ sáu là Sử Văn
Thái, thứ bảy là Phạm Thần Khanh. Còn Hắc Sát thần, họ Triệu tên Công Minh, từ
khi trốn xuống trần, không ai kềm thúc, nên nó nhiễu hại lê dân, thời may không
đem bửu pháp theo, nên cũng dễ trị, bây giờ Triệu Công Minh với bảy tướng ở tại
phủ Từ Châu, động Thanh Phong, ăn thịt người nhiều lắm. Bởi nó sai tiểu yêu đi
tuần dựa mé sông, hễ có ai qua sông thì bắt mà nạp. Nay tại phủ Từ Châu có một
người ở đường Tây An, họ Chiêm tên Lập Thăng, tu nhân tích đức, có lên cốt
ngươi mà thờ. Nay Chiêm Lập Thăng tính đi buôn bán phương xa, bề nào cũng qua
sông ấy. Triệu Công Minh có sai một tướng đón tại mé sông mà bắt Chiêm Lập
Thăng. Vậy thì ngươi phải mau mau đến mé sông mà cứu người ấy, chẳng uổng công
người tin tưởng thờ phượng bấy lâu”. Chân Võ tổ sư nghe nói tạ ơn, liền dẫn
Thủy Hỏa nhị tướng xuống Từ Châu giả làm ba người khách đứng dựa mé sông mà chờ
đò. Xảy thấy độ phu chèo đò qua, Chân Võ tổ sư thấy chỗ độ phu đứng hiện ra
khói đen, có hình bảy người trong khói ấy, nhảy lên mà bắt mình. Chân Võ tổ sư
với Thủy Hỏa nhị tướng hỗn chiến một hồi, yêu tinh đại bại, chạy về động Thanh
Phong báo với thần Hắc Sát. Triệu Công Minh nổi giận, ra xỉ mạ dương oai. Chân
Võ tổ sư nói: “Ngươi là thần Hắc Sát cõi trên, sao không thủ phận, lại xuống
phàm làm hại lê dân? Nay đã phạm thiên điều, mau mau chịu trói, thì ta dung
cho; nếu cự địch không toàn tánh mạng”. Triệu Công Minh nổi giận cầm roi sắt
đánh liền. Chân Võ tổ sư đánh ba trăm hiệp không phân thắng bại.
Khi ấy Triệu Công Minh bảo Lý Tiện biến ra cây
roi đuôi cọp, cây roi dài hơn ba mươi hai thốn, Triệu Công Minh cầm roi ấy mà
đánh. Chân Võ tổ sư biết Lý Tiện là cốt cọp. Liền bảo Hỏa tướng là Xà tinh hóa
ra cây phướng, là phướng dài ba mươi hai trượng, quấn roi của Triệu Công Minh,
Lý Tiện là cọp bị Xà tinh quấn chặc, nên chịu không nổi, liền hiện hình cọp mà
chạy mất. Triệu Công Minh bại tẩu. Chân Võ tổ sư đuổi theo. Triệu Công Minh
chạy về động không được túng phải đằng vân, Chân Võ tổ sư nói: “Nay Triệu Công
Minh đã bay rồi, chắc là cách đây bốn mươi dặm nó sẽ sa xuống. Vậy thì hóa trận
gió đón đầu nó. Hỏa tướng hóa ra hòn núi. Thủy tướng hóa ra trái táo, để trong
chén nước trà, ta dùng gươm thất tính hóa ra am Thông Tiên, còn ta là đạo sĩ ở
đó tụng kinh, chắc là Triệu Công Minh vào am mà trốn, ta bưng chén nước trà có
trái táo dâng cho nó, nếu nó bỏ trái táo vô miệng thì ngươi chung vào bụng nó,
thí bắt nó đặng”. Sắp đặt xong xuôi, đằng vân đi trước đón đầu, làm y như kế
ấy, bởi ba thầy trò hóa gió bay mau nên Triệu Công Minh theo không kịp, tới Vạn
Tòng hóa ra như vậy…
Nói qua Triệu Công Minh đằng vân tới trước, cách
bốn mưới dặm hạ xuống, không có chỗ nương, lại thêm đói bụng. Ngó thấy có cái
am phía trước, có đạo sĩ đang tụng kinh. Triệu Công Minh vào am, xin cơm đỡ dạ.
Đạo sĩ hỏi: “Chẳng hay khách quan ở đâu đến đây? Cơm sáng nay ăn đã hết rồi,
cơm chiều thì chưa nấu. Để tôi đem trà cho ông uống, rồi sẽ nấu cơm”. Triệu
Công Minh nói: “Vậy thì đem trà cho ta uống rồi đi nấu cơm cho mau! Bởi ta đói
bụng lắm!”. Đạo sĩ bưng chén trà có trái táo, dâng cho Triệu Công Minh. Triệu
Công Minh vớt trái táo mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai trái táo đã chạy tuốt
khỏi cổ. Đạo sĩ hỏi rằng: “Triệu Công Minh ngươi biết ta là ai chăng?”. Triệu
Công Minh nói: “Ngươi tên họ là chi, thiệt ta chưa biết”. Đạo sĩ nói: “Để ta
hiện hình cho ngươi coi”. Nói rồi hiện nguyên hình. Triệu Công Minh kinh hãi
muốn chạy. Chân Võ tổ sư kêu Thủy tướng, bảo bò trong bụng Triệu Công Minh.
Triệu Công Minh đau bụng quá, chịu không nổi, ngã lăn ra đất mà kêu trời. Tổ sư
nói: “Trái táo mà ngươi ăn hồi nãy là Qui tinh bộ tướng của ta. Ngươi chịu đầu
hàng thì uống viên thuốc này, Qui tinh sẽ ra lập tức, bằng nghịch mạng ta thì
chẳng còn hồn”. Triệu Công Minh nói: “Xin ông cứu mạng tôi chịu quy hàng”. Chân
Võ tổ sư đưa một hạt hỏa đơn cho Triệu Công Minh uống, rồi kêu Thủy tướng ra
ngoài. Triệu Công Minh liền lạy tạ. Rồi kêu bảy tướng, đến lạy Tổ sư mà quy y.
Sáu tướng vâng lịnh hàng đầu. Còn Lý Tiện chạy mất rồi nên kiếm không được.
HỒI THỨ MƯỜI HAI
Chân Võ bị kim đao[39]
Nói về Lý Tiện là hắc hổ, chạy thẳng vào rừng hóa
ra một đứa con gái, ngồi khóc bên đường, gạt người lại gần bắt mà ăn thịt.
Ngày kia con gái ấy thấy Chân võ tổ sư đi lại
gần, liền khóc than, lạy xin cứu mạng. Chân Võ tổ sư ngó thấy đứa con gái mắc
lầy, biết nó là yêu tinh, liền nhảy lại nắm tay kéo lên, tay hữu cầm gươm thất
tinh mà chỉ, con gái ấy hiện nguyên hình là hắc hổ. Triệu Công Minh giá roi mà
đánh, hắc hổ thấy chủ liền mọp xuống cúi đầu, Chân Võ tổ sư không cho đánh liền
thâu hắc hổ đi theo.
Ngày kia Ngọc đế lâm triều, các thần tiên chầu
chực. Diệu Lạc thiên tôn tâu rằng: “Chân võ xuống phàm thâu được Hắc Sát thần
Triệu Công Minh, và hắc hổ với sáu tướng là bảy”. Ngọc đế khen rồi truyền chỉ
xuống phong Triệu Công Minh làm Triệu nguyên soái tay tả cầm dây trói cọp, tay
hữu cầm roi trừ tà. Triệu Công Minh tạ ơn, theo làm bộ tướng của Tổ sư, đồng đi
thâu hắc khí.
Nói về cây Thanh long đao của ông Quan Công, lâu
năm thành tinh quái, xưng hiệu là Kim liệt tướng quân. Nó có ba ngàn binh yêu
đều biết biến hóa, đồng ở núi Thiên Thai, nếu ai đến gần thì chúng nó bắt mà ăn
thịt.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi đến núi Thiên Thai, Kim
Liệt tướng quân biến ra dị hình, mình dài chân nhỏ, hào quang chiếu sáng lòa.
Chân Võ tổ sư biết nó là yêu tinh, liền rút gươm phép mà chém nó, nghe tiến kêu
rổn rảng, muốn mẻ gươm thất tinh. Kim Liệt tướng quân xông lại hỗn chiến.
Giây phút Kim Liệt tướng quân hóa ba nghìn phi
đao bay tới, Chân Võ tổ sư cự không lại, bị phi đao xăm đã nát mình, tức thì tử
trận, Kim Liệt liền thâu binh về núi Thiên Thai.
Khi ấy Thủy Hỏa nhị tướng với Triệu Công Minh,
thấy Chân Võ tổ sư bị thương, thì trong lòng phiền não. Thủy tướng nói: “Chúng
ta đứng đây mà ngó, nhắm chẳng ích chi? Vậy thì Triệu nguyên soái ở đây giữ xác
thầy, đặng anh em tôi lên cõi trên, ra mắt Tam Thanh, xin cứu sư phụ”. Triêu
Công Minh nói: “Phải vậy thì ta giữ xác thầy, còn hai tướng đi hỏa tốc, chẳng
nên diên trì”.
Khi ấy Thủy Hỏa đằng vân về thượng giới, ra mắt
Tam Thanh, đồng quỳ lạy trước điện. Tam Thanh hỏi: “Sao hai ngươi không theo
thầy mà thâu hắc khí, đến đây có chuyện chi?”. Hai tướng thuật chuyện lại. Tam
Thanh cho mời Diệu Lạc thiên tôn đến. Thái thượng lão quân nói: “Đệ tử ông đi
thâu hắc khí, bị Kim đao làm hại, nên Thủy Hỏa nhị tướng về cầu cứu, ông phải
mau mau xuống phàm mà cứu đệ tử, nếu để quá mười ngày thì chết thiệt, xác tiêu
ra nước, khó nỗi hoàn hồn. Hãy cứu Chân Võ rồi thu Kim đao tinh luôn thể”. Diệu
Lạc thiên tôn vâng lệnh từ tạ, đi theo hai tướng, đồng đằng vân xuống núi Thiên
Thai, thấy Triệu Công Minh đang ngồi giữ xác. Diệu Lạc thên tôn làm phép thổi
vào miệng Chân Võ tổ sư rồi niệm chú.
Giây phút Chân Võ tổ sư tỉnh dậy, thấy thầy ngồi
đó, biết là giáng hạ cứu mình liền cúi đầu lại tạ. Rồi nói rằng: “Thưa thầy,
chẳng hay yêu quái ấy cốt nó là chi?”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Nó là bửu bối
của Tráng Mục, thành yêu quái hại người”. Chân Võ tổ sư bạch rằng: “Chẳng hay
nó là vật chi của ông Tráng Mục?”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Tráng Mục là Quan
Vũ tự Vân Trường đời tam quốc. Bởi Quan Tráng Mục trung dũng nghĩa khí, nên
Ngọc đế phong làm thần Tráng Mục”. Chân Võ tổ sư hỏi rằng: “Quan Tráng Mục nhờ
trung nghĩa mà thành thần, hay là có tu hành chi nữa?”. Diệu Lạc thiên tôn nói:
“Phàm người đại trung, đại hiếu, đại tiết, đại nghĩa, thác rồi đều phong thần,
đời nào cũng vậy. Bởi khi trước Quan Tráng Mục bị kế Lữ Mông mà mất Kinh châu,
sau bị vây tại Mạch thành, Lưu Phong không tiếp. Gia Cát Tử Du qua thuyết hàng,
Quan Tráng Mục cũng không chịu, đến khi bị Ngô bắt, cũng không chịu đầu hàng,
đến nổi bị giết. Linh hồn tuy vật Lữ Mông chết, song chưa đã giận. Sau gặp Phổ
Tịnh độ đại sư độ Quan Tráng Mục tu hành, nên Thượng Đế gia phong làm Trung
nghĩa đại tướng quân. Ban ngày xem việc thiên tào, ban đêm coi việc địa ngục.
Quan Tráng Mục thấy làm thần mệt nhọc, nên xin Thượng Đế cho đến Tây phương mà
thính pháp, liền đem Quan Bình và Châu Thương đến Tây phương nghe kinh, quyết
thành chính quả, nên không dám đem cây Thanh long đao theo. Không dè cây đao ấy
chém nhiều mạng người, để lâu năm nó thành tinh, thấy chủ đi khỏi, lén xuống
núi Thiên Thai, làm yêu mà hại chúng. Nếu ngươi muốn thu con tinh ấy, thì phải
đến Tây phương mà thỉnh Quan Tráng Mục xuống đây, thu Kim đao mới được”. Chân
Võ tổ sư nghe nói mừng quá, liền đưa thầy trở về. Và dặn Triệu Công Minh với
hai tướng ở đó mà đợi, liền đưa thầy về cung, rồi thẳng qua Tây phương lập tức.
Nói về Phật tổ đang giảng kinh tại Lôi Âm tự, xảy
thấy hào quang chiếu xa xa, liền nói với Quan Công rằng: “Huyền Thiên có nạn sẽ
đến cầu ngươi”. Quan Công bạch rằng: “Chẳng hay cầu tôi giúp việc chi?”. Thích
Ca như lai nói: “Giây lâu đây ngươi thì sẽ hiểu”.
Không bao lâu ngó thấy Chân Võ tổ sư đằng vân
đến, vào làm lễ Thích Ca. Thích Ca như lai bước xuống đỡ dậy, nói rằng: “Huyền
thiên Thượng Đế có việc mới đến đây, bần tăng đã biết trước. Hãy ngồi dậy mà
đàm đạo, bần tăng sẽ bảo Quan Vũ ra mắt”. Nói rồi kêu Quan Công ra mắt Chân Võ
tổ sư. Chân Võ tổ sư nói: “Cây Thanh long của tướng quân đã thành tinh. Thấy
tướng quân đi khỏi nên nó xuống trung giới mà làm yêu, ta thu nó không được,
nên phải đến mà cầu viện tướng quân”. Quan Công nói: “Siêu đao của tôi tác quái
làm cho nhọc sức Tổ sư đến đây, lẽ nào tôi dám chối từ, mà không đi thu nó.
Song tôi mới đến Tây phương thính pháp, chưa thông hiểu bao nhiêu, xin nán nghe
giảng kinh cho thông hiểu rồi, tôi sẽ đi thu nó”. Thích Ca như lai nói: “Bởi đệ
tử không hiểu, nguyên Tổ sư là hồn Thượng Đế giáng sinh, đạo ngươi là tôi, Tổ
sư là chúa, lẽ nào chúa đã đến cầu viện mà tôi chẳng chịu đi? Dầu chúa bảo thác
tôi cũng chẳng dám từ, ngươi là người trung nghĩa, phải lo báo chúa mà lập
công, nếu không đi thì lỗi đạo”. Quan Công bạch rằng: “Tôi lẽ nào dám nghịch
chỉ, song e thính pháp chưa thông, khó thành chính quả, xin Phật tổ từ bi”.
Thích Ca như lai nói: “Tuy ngươi nghe kinh chưa thông mặc lòng, song chịu làm
đệ tử Tổ sư, thì khỏi luân hồi, đặng thành chính quả. Nếu ngươi để trễ nãi, một
là nghịch chỉ, mang tội với quân vương, hai là để cây đao của ngươi làm hại dân
lành phạm tội sát sinh đã nhiều có nghe kinh cũng vô ích. Quan Công nghe nói
như vậy, liền lạy tạ Như lai, rồi dẫn Quan Bình với Châu Thương, đồng theo Chân
Võ tổ sư chịu làm đệ tử.
Khi ấy Chân Võ tổ sư từ tạ Phật tổ, đem Quan
Công, Quan Bình và Châu Thương đến núi Thiên Thai. Thủy Hỏa nhị tướng và Triệu
Công Minh đồng ra nghinh tiếp. Chân Võ tổ sư thuật chuyện lại. Ai nấy đồng vui
lòng.
Hôm sau Quan Công đến núi Thiên Thai khiêu chiến.
Lúc này Kim Liệt tướng quân đang uống rượu, nghe ngoài núi làm inh ỏi, liền nổi
giận nai nịt chạy ra. Ngó thấy chủ cưỡi ngựa Xích thố đi kiếm mình. Kim Liệt
tướng quân hãi kinh hiện nguyên hình té xuống đất. Quan Công liền thu lấy siêu
đao, ai nấy đồng mừng rỡ. Chân Võ tổ sư về tâu với Ngọc đế, phong Quan Công làm
Sùng Ninh vương Đạo Thái Chân quân; và gia phong Quan nguyên soái, cũng ban ngày
chầu Thượng giới ban đêm tuần xét dưới Âm tào. Tay tả cầm siêu đao, tay hữu cầm
ấn, chân tả cưỡi bánh xe sấm, chân hữu cưỡi bánh xe lửa, hỗ trợ Chân Võ tổ sư
mà thu yêu quái, rãnh sẽ coi việc Thiên tào Địa phủ. Quan Công tạ ơn.
HỒI THỨ MƯỜI BA
Tổ sư thu Lôi soái, Điền Huê
Khi ấy Chân Võ tổ sư đi đến đất Ủng Châu, ngó
thấy oán khí đầy trời, biết có yêu tinh nữa. Xảy thấy một ông già vừa đi vừa
khóc. Chân Võ tổ sư hỏi: “Chẳng hay ông khóc vì cớ nào? Xin cắt nghĩa cho rõ?”.
Ông già ấy khóc và thưa rằng: “Tôi họ Tôn tên Hạo, ở đất Ủng Châu này, nội nhà
tôi bảy người, đều ăn chay ngày mùng ba tháng ba cả thảy”. Chân Võ tổ sư hỏi:
“Vì cớ nào mà ăn chay ngày ấy?”. Tôn Hạo nói: “Tôi nghe đồn có một vị tu luyện
tại núi Võ Đương, nay đã thành đạo, nên tôi ăn chay ngày vía của ngài mà cầu
ngài bảo hộ cho đặng phước”. Chân Võ tổ sư nói: “Như vậy thì ngươi là người làm
lành, còn mắc họa hoạn chi mà khóc như vậy?”. Tôn Hạo nói: “Tôi khóc vì cớ này,
gần đây có núi Thần Lôi, có con yêu tinh mới làm lộng ít năm nay, hiện hình cho
chúng thấy. Đội mão đạo sĩ, ba con mắt tròn vo. Diện mạo dữ dằn, hình dung kỳ
dị, tay cầm dùi và lưỡi tầm sét, xưng hiệu là Tân Hưng vương. Con yêu ấy háo
sắc quá, ở độc như vầy: Nếu ai ở xứ này gả con, thì hôm nhóm họ phải đưa cô dâu
lên núi một đêm, sáng sẽ rước về mà gả. Bằng không thì Tân Hưng vương nổi sấm
đánh chết cô dâu. Ai nấy đều phàn nàn về việc ấy. Còn tôi có một cháu gái, mai
sẽ đưa dâu, nay nó chẳng chịu đi lên núi. Như vậy nó phải chết về nghiệp ấy,
nên tôi thương cháu mà khóc than”. Chân Võ tổ sư nói: “Ta có học phép tiên hay
trừ yêu quái,ngươi đừng than khóc làm chi để ta giải cứu. Ngươi hãy trở về nhà
mà lo việc gả cháu”. Tôn Hạo nghe nói mừng rỡ, tạ ơn rồi về nhà.
Còn Chân Võ tổ sư bảo Quan nguyên soái hóa ra con
gái còn mình hóa ra ông già, đi đến núi Thần Lôi mà dâng cháu.
Nói qua Tân Hưng vương, thấy ông già đêm cháu đến
mà nạp. Tức thì mừng rỡ, ra bồng nàng ấy vào trong. Chẳng ngờ Chân Võ tổ sư nạt
lên một tiếng, Quan Công liền hiện nguyên hình, Tân Hưng vương trở tay không
kịp, bị Quan Công bắt sống, đem nạp cho Chân Võ tổ sư. Chân Võ tổ sư nói rằng:
“Nếu ngươi muốn cải tà quy chính theo làm bộ hạ ta thì phải uống viên thuốc
này, ta mới thu dụng”. Tân Hưng vương chịu phép, uống hoàn thuốc hỏa đơn, rồi
lạy Tổ sư theo làm bộ tướng.
Nói về núi Lạc Phách có chúa động là Điền Huê,
hằng sai tiểu yêu đi tuần núi, đón bộ hành mà thu tiền mãi lộ, bằng không tiền
mãi lộ Điền Huê hóa sét đánh chết lấy tâm can mà uống rượu.
Ngày kia Chân Võ Tổ sư, đi cách ba mươi dặm, đến
núi Lác Phách. Tiểu yêu đón đường thu tiền mãi lộ. Chân Võ tổ sư biết nó không
phải là ăn cướp, thiệt quả là khí yêu; liền rút gươm thất tinh, chúng nó liền
chạy về động.
Khi ấy Điền Huê đại vương nghe tiểu yêu về bảo
nổi giận xông ra, niệm chú sấm nổ. Chân Võ tổ sư cầm gươm thất tinh chỉ lên,
sấm không nổ nữa. Điền Huê làm phép hoài mà sấm không nổ, giận quá xông ra hỗn
chiến, đâm Tổ sư một thương. Chân Võ tổ sư đỡ rồi đánh lại. Điền Huê bại tẩu.
Triệu nguyên soái đuổi theo, quăng dây Hỏa sách trói lại, đem nạp cho Tổ sư.
Chân Võ tổ sư hỏi: “Ngươi muốn đầu hàng chăng?”. Điền Huê thưa rằng: “Xin Tổ sư
thứ tội, tôi tình nguyện đầu hàng”. Chân Võ tổ sư cho uống hỏa đơn, rồi dâng
biểu tâu với Thượng Đế. Thượng Đế phong Tân Hưng vương làm Lôi nguyên soái,
phong Điền Huê làm Điền nguyên soái đồng cầm cờ lệnh theo Tổ sư.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi được bảy mươi dặm, gặp
một ông già là Trương Vạn, Trương Vạn bái và hỏi rằng: “Chẳng hay các vị đi đâu
đông đảo?”. Chân Võ tổ sư nói: “Thầy trò ta đi trừ yêu tinh tà quỷ”. Trương Vạn
thưa rằng: “Như các vị có phép trừ tà quái, để tôi điềm chỉ cho, tại núi Đẩu
Cách này có một con yêu trong động, mà chẳng thấy hình. Hễ nó thấy của tốt gái
xinh, thì hóa gió thổi bay về động. Nếu sư phụ có phép, cũng nên bắt con yêu ấy
mà cứu dân”. Chân Võ tổ sư bảo Trương Vạn dẫn đường đến núi Đẩu Cách.
Khi ấy có một người trong động nhảy ra, tóc tai
đỏ hoe, nanh vuốt chơm chởm, tay cầm siêu đao lớn, vớt đao chém sang phía trái
Tổ sư. Chân Võ tổ sư cự chiến, con yêu đánh không lại, liền nổi gió đùng đùng
thổi Chân võ tổ sư bay mất. Chân Võ tổ sư bay đến một chỗ ngó thấy đền lớn,
ngoài treo biển đề ba chữ: Vô Sinh điện[40]. Có một đạo sĩ ngồi trong. Chân Võ
tổ sư bước vào liền bái, hỏi thăm tên họ. Đạo sĩ nói: “Ta họ Thích tên Triệu,
hiệu là Thủy Đài”. Chân Võ tổ sư thuật chuyện bị yêu quái hóa gió mà thổi vân
vân. Thích Triệu cười rằng: “Mình đã kim khuyết hóa thân, sao không hiểu phép
ấy”. Chân Võ tổ sư nói: “Bần đạo thiệt không hiểu”. Thích Triệu nói: “Gió ấy là
Bắc phương thanh khí, ta cho một hoàn tiên đơn, đem theo thì gió ấy thổi không
nổi”. Chân Võ tổ sư lãnh thuốc rồi từ tạ, đằng vân về Đẩu Cách sơn. Các tướng
đồng mừng rỡ.
Rạng ngày Chân Võ tổ sư ngậm hoàn thuốc tiên đơn,
mà khiêu chiến. Con yêu ấy cũng cầm siêu đao ra đánh. Giây phút nó lấy bánh xe
gió làm phép như hôm qua, không dè không nổi gió. Bị các tướng bắt được nạp
liền Chân Võ tổ sư. Chân Võ tổ sư hỏi nó tên họ chi? Nó xưng là Quảng Trạch đại
vương. Chánh họ là Châu. Chân Võ tổ sư bảo nó uống thuốc hỏa đơn thì cho đầu
hàng làm bộ hạ. Châu Quảng Trạch y lời. Chân Võ tổ sư dâng sớ. Ngọc đế phong
cho Quảng Trạch làm Phong Luân Châu nguyên soái[41] theo phò Tổ sư mà lập công.
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
Chân võ bắt Đậu thần, Hỏa Đức
Nói về tỉnh Sơn Đông, huyện Minh Hải, có một con
yêu không hiện hình. Nó ứng mộng xưng là Trương Kiện, hành bệnh bông trái. Nếu
ai không cúng tế nó thì nó hành con cái mang chứng trái trời mà chết.
Khi ấy Chân Võ tổ sư đến Sơn Đông, ngó thấy con
yêu ấy mặt mày tươi tốt, áo mão nghiêm trang dắt ba đứa con nít, đằng vân giữa
thinh không, ấy là Trương Kiện. Chân Võ tổ sư ngó thấy biết là yêu tinh, liền
rút gươm mà phóng nó. Trương Kiện nói: “Ngươi ở cõi trên, ta ở trung giới,
không can phạm tới, sao ngươi muốn hại ta?”. Chân Võ tổ sư nói: “Bởi ngươi làm
chẩn đậu mà hại dân, nên ta thu ngươi không cho sát hại nữa”. Trương Kiện làm
thinh giao chiến được ít hiệp, bị các tướng xông vào trợ chiến, Trương Kiện bại
tẩu chạy về bế động không ra. Chân Võ tổ sư bảo Hỏa tướng quân hóa làm con nít,
khóc trước cửa động, tiểu yêu bắt nó vào nạp cho Trương Kiện. Trương Kiện ngỡ
là con nít thật, nên ăn thịt đỡ lòng. Chẳng ngờ mới kê miệng vào, Hỏa tướng
quân biến thành con rắn con, chun thẳng vào bụng, Trương Kiện đau bụng quá, ngã
lăn dưới đất mà rên la. Hỏa tướng ở trong bụng nói rằng: “Ta là Xà tướng đã vào
bụng ngươi rồi, hãy mở cửa động mà rước thầy ta, bằng nghịch mạng ắt là ta cắn
chết”. Trương Kiện chịu phép, mở cửa động rước Tổ sư và các tướng vào trong,
rồi quỳ lạy chịu tội, Chân Võ tổ sư bảo nó uống một hạt hỏa đơn, rồi kêu Xà
tinh ra lập tức. Liền viết sớ tâu Ngọc đế, Ngọc đế phong Trương Kiện là Tận
trung Trương nguyên soái, theo phò tá Tổ sư.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi tới Hỏa Diệm sơn thì
trời đã tối, xảy thấy một ngọn yêu khí, một con yêu đội mão đạo sĩ, tay cầm
siêu đao, có tiểu yêu cầm cờ đi trước, cờ đề rằng: “Đại vương Tạ Sĩ Vinh”.
Triệu nguyên soái với Quan Công bước tới hỗn chiến. Tạ Sĩ Vinh phun lửa rần
rần, Triệu nguyên soái và Quan Công bại tẩu.
Khi ấy Chân Võ tổ sư rút gươm đánh với Sĩ Vinh,
Tạ Sĩ Vinh cũng phun lửa như cũ. Chân Võ tổ sư lấy gươm thất tinh chỉ về phía
Bắc, nước dâng tới cuồn cuộn, lửa ấy tắt đi rồi, Tạ Sĩ Vinh lạnh quá chừng,
chạy vào động bế cửa lại. Chân Võ tổ sư khiêu chiến không được, liền sai Thủy
tướng hóa làm tiểu yêu, ở trên trời sa xuống, đánh với lũ yêu ngoài động, bị
tiểu yêu bắt được đem nộp cho Tạ Sĩ Vinh. Thủy tướng hiện nguyên hình là Qui
quái, phun nước tràn cả động. Tạ Sĩ Vinh kinh hãi chạy ra, bị Chân Võ tổ sư cầm
gươm thất tinh chỉ một cái nước dâng mênh mông, lũ tiểu yêu chết hết. Còn Tạ Sĩ
Vinh bị Điền Huê bắt được đem nạp cho Tổ sư. Chân Võ tổ sư hỏi: “Ngươi chịu đầu
hàng chăng?”. Tạ Sĩ Vinh liền chịu, Chân Võ tổ sư thâu Chân thủy luyện thành
hoàn thuốc, đưa cho Tạ Sĩ Vinh uống liền. Rồi dâng sớ cho Thượng Đế, phong Tạ
Sĩ Vinh làm Hỏa đức Tạ thiên quân, tay cầm roi vàng và đao lửa theo phò hộ Tổ
sư.
Khi ấy Chân Võ tổ sư đi khỏi Hỏa Diệm sơn, đến
núi Côn Lôn. Chẳng ngờ trong núi ấy có sáu con quái là: Thiên Độc, Địa Độc,
Niên Độc, Nguyệt Độc, Nhật Độc, Thời Độc gọi là Lục độc. Chúng nó bay phun hơi
độc mà hại người. Chân Võ tổ sư ngó thấy độc khí nhiều lắm, nên nói rằng: “Khí
độc nhiều lắm chẳng phải tầm thường, để một mình ta rán sức”. Nói vừa dứt
tiếng, xảy có trận gió thổi đến, Chân Võ tổ sư cầm gươm ra đón, bị bầy yêu phun
độc khí vào mặt, Chân Võ tổ sư bất tỉnh nhân sự, té xuống nằm mê mang. Các
tướng hãi kinh chạy tản.
Giây phút độc khí tan hết, các tướng nhóm lại,
thấy Tổ sư nằm thiêm thiếp, các tướng hãi kinh. Quan Công nói: “Các tướng ngồi
nhìn nhau cũng vô ích. Vậy thì các tướng ở đó mà hầu hạ thầy. Để ta lên thượng
giới ra mắt Tam Thanh, mà cầu cứu sư phụ”. Ai nấy đồng khen phải, Quan Công
đằng vân đến Tam Thanh thưa hết các việc, Tam Thanh nói: “Đó là thần Lục độc,
bộ hạ của Châu Ngạn Phu ở núi Côn Lôn. Nay Lục độc trốn xuống tác quái. Nếu
ngươi muốn cứu thầy, thì phải đến núi Côn Lôn mà thỉnh Châu Ngạn Phu, thì thu
Lục độc mới được”. Quan Công thưa rằng: “E đệ tử thỉnh Châu Ngạn Phu không chịu
đi, thì thầy tôi phải khốn”. Tam Thanh nói: “Nó có một bửu pháp kêu bằng Trang
Độc đại[42] thiệt sức các ngươi cự không nổi, vậy thì chúng ta xuống cứu thầy
ngươi, sẽ bày kế bắt Châu Ngạn Phu, sẽ bảo nó thu Lục độc”. Nói rồi lấy quạt
đằng vân xuống núi Côn Lôn. Thấy Chân Võ tổ sư nằm mê bất tỉnh. Tam Thanh niệm
chú, lấy quạt mà quạt vài cái, rồi phun nước vào mình Tổ sư lại hà hơi ba cái.
Chân Võ tổ sư bắt hơi thở được, mở mắt thấy Tam Thanh liền dậy lạy tạ ba thầy,
tạ ơn cứu mạng, Tam Thanh nói: “Ngươi bị Lục độc mà mang bệnh, nay phải thu chủ
nó là Châu Ngạn Phu ở núi Côn Lôn, sẽ bảo thu chung nó mới được”. Chân Võ tổ sư
thưa rằng: “Rất đỗi bộ tướng của nó mà tôi còn cự không lại thay, huống chi là
chủ nó”. Tam Thanh nói: “Ta có Tiêu Diêu phiến[43] dùng đã mấy đời; yêu tinh
không dám gần báu ấy. Ngươi hãy sai Hỏa đức Tạ thiên quân lãnh Tiêu Diêu phiến
đi khiêu chiến, chắc Châu Ngạn Phu lấy túi chứa độc mà thu Tạ thiên quân, Tạ
thiên quân cầm Tiêu Diêu phiến mà quạt vài cái, tức thì lửa dậy cháy túi mà ra
thì ngươi thu nó mới được. Như xong việc ấy, phải trả Tiêu Diêu phiến cho ta”.
Nói rồi đưa Tiêu Diêu phiến. Liền đằng vân trở lại thiên cung.
Còn Chân Võ tổ sư y kế, sai Tạ thiên quân lãnh
quạt đi trước, Chân Võ tổ sư với các tướng theo sau, đằng vân tới Côn Lôn lập
tức. Chân Võ tổ sư nói với các tướng rằng: “Để ta vào trước lấy lời mà khuyên
nó, chừng nào nghịch mạng sẽ hay”.
Khi Chân Võ tổ sư vào trước, thấy Châu Ngạn Phu
ngồi sửng. Chân Võ tổ sư liền bái Châu Ngạn Phu. Châu Ngạn Phu ngồi điềm nhiên
hỏi rằng: “Ngươi là ai đó?”. Chân Võ tổ sư nói: “Tôi là Bắc phương Chân Võ
tướng quân, vâng chỉ xuống phàm thu Hắc khí”. Châu Ngạn Phu nói: “Ngươi đi thu
Hắc khí mà đến ta làm chi?”. Chân Võ tổ sư nói: “Bởi có Lục độc làm loạn hại
dân, hỏi ra mới hay là bộ tướng của tôn thần, nên đến thỉnh tôn thần thu lại”.
Châu Ngạn Phu nói: “Ngươi đi thu Hắc khí sao lại cự địch với bộ tướng của ta?
Đã thu không được nó thì thôi, còn dám đến mà sai cắt ta nữa sao?”. Chân Võ tổ
sư nói: “Tôi vâng lệnh Ngọc đế đi thu hắc khí, là trừ hại cho dân, nay độc khí
hại người dữ hơn hắc khí, nên tôi đến thỉnh tôn thần thu bộ hạ về, sao tôn thần
lại nói như vậy?”. Châu Ngạn Phu nói: “Ta chẳng hề cho ngươi nói dai nữa, hãy
đi cho mau? Nếu nói rán thì ta đem bửu bối ra, thu ngươi vào đó bảy ngày, sẽ
tiêu tan ra nước”. Tạ thiên quân nghe nói vô lễ quá, nên dằn không được, nhảy
lại đánh liền. Châu Ngạn Phu lấy Trang Độc đại quăng ra thu Tạ thiên quân vào
túi.
Khi ấy Chân Võ tổ sư với các tướng áp lại đánh
Châu Ngạn Phu. Còn Tạ thiên quân ở trong túi, quạt vài cái, lửa cháy túi liền
chun ra. Lấy quạt Tiêu Diêu, quạt Châu Ngạn Phu vài cái. Châu Ngạn Phu hãi kinh
té xuống, bị chúng tướng trói liền. Châu Ngạn Phu lạy lục chịu đầu hàng, Chân
Võ tổ sư lấy một viên kim đơn và túi Trang độc lại. Rồi trao một viên hỏa đơn,
bảo Châu Ngạn Phu uống. Liền dâng sớ tâu với Ngọc đế. Ngọc đế phong Châu Ngạn
Phu làm Châu nguyên soái, tay cầm kim chùy và mang túi Trang độc, theo Tổ sư
thu quái mà lập công.
Khi ấy Chân Võ tổ sư sai Châu nguyên soái thu Lục
độc, Châu nguyên soái vâng lời, thu về rồi thưa lại. Chân Võ tổ sư mừng lắm.
Châu nguyên soái thưa rằng: “E ngày sau loài yêu quái mạo tiếng Lục độc mà hại
lê dân. Nếu có đảng ấy, xin thầy cho phép tôi trừ nó”. Chân Võ tổ sư nói phải.
HỒI THỨ MƯỜI LĂM
Bắt Huê Quang lại thả
Khi ấy Chân Võ tổ sư đang đi, xảy thấy hào quang
chiếu sáng, nhìn lại là Thái Bạch kim tinh vâng chiếu chỉ đi xuống truyền rằng:
“Nay có Huê Quang không chừa nết cũ đốt đền, đánh thái tử Kim Thương, nên triệu
Tổ sư về thu Huê Quang mà cứu giá”. Chân Võ tổ sư tạ ơn rồi truyền chư tướng
đằng vân theo mình về Thiên cung. Đi mới gần tới điện, xảy gặp Huê Quang, Chân
Võ tổ sư giơ gươm hỏi rằng: “Ngươi là ai mà hành hung như vậy?”. Huê Quang nói:
“Ta tham hoa tham tửu, hiệu xưng rằng Hoa Tửu Mã Linh Quang”. Chân Võ tổ sử
hỏi: “Phải là Huê Quang hồi trước chăng?”. Huê Quang nói phải. Chân Võ tổ sư
hỏi: “Thượng Đế phụ ngươi điều chi? Mà ngươi đốt cửa Nam thiên và đánh Thái tử?”. Huê
Quang nói: “Ngươi ở phía Bắc, ta đốt cửa Nam, can phạm chi ngươi mà hỏi?”.
Chân Võ tổ sư nói: “Ta vâng chỉ Ngọc đế đi bắt ngươi, ngươi hãy bó mình mà chịu
tội. Nếu ngươi nghịch mạng chắc giây phút chẳng còn”. Huê Quang nghe nói nổi
giận mà mà cầm giáo đâm liền. Chân Võ tổ sư biến hình cao lớn mà đánh Huê
Quang. Huê Quang hiện ba đầu sáu tay cự chiến. Chân Võ tổ sư gọi các tướng tới
trợ lực. Một mình Huê Quang cự không lại, túng thế phải chịu thua chạy qua phía
Bắc. Chân Võ tổ sư đuổi theo, Huê Quang lấy cục Tam giác kim chuyên ném lại
phía Tổ sư. Chân Võ tổ sư lấy cờ Thất tinh phất qua, thu Tam giác kim chuyên.
Huê Quang nổi nóng, lấy Phong Hỏa nhị luân ném lại nữa. Chân Võ tổ sư cũng lấy
cờ Thất tinh thu Phong Hỏa nhị luân nữa.
Khi ấy Huê Quang hết phép, đánh hỗn chiến mà
thôi, đổ lửa ra cháy đỏ. Chân Võ tổ sư lấy gươm Thất tinh chỉ về phía Bắc, nước
dâng cuồn cuộn, sóng bũa muôn trùng. Cốt Huê Quang là ngọn đèn, nên chịu nước
không nổi, bị Chân Võ tổ sư bắt được, mắng rằng: “Ngươi thần thông bậc nào, mà
dám đánh với Thái tử? Nay ta bắt được, còn khoe tài nữa thôi?”. Vừa nói vừa lấy
thủy băng đề trên mình Huê Quang. Huê Quang bị thủy băng đè mình, cựa quậy
không được. Túng thế phải khóc mà thưa rằng: “Tôi bị Đặng Hóa sở bức, cùng
chẳng đã mới phản, nay Tổ sư bắt được, đã biết tội rồi, xin lấy lòng từ bi mà
dung đệ tử”. Chân Võ tổ sư nói: “Nếu ngươi cải tà quy chánh, thì ta dùng làm bộ
tướng, để đánh yêu quái mà lập công”. Huê Quang thưa rằng: “Nếu Tổ sư thứ tội,
tôi chịu là bộ hạ luôn luôn, chẳng hề dám phản nữa”. Chân Võ tổ sư lấy một hạt
thủy châu, hóa ra hột gạo, bảo Huê Quang nuốt vào bụng rồi dặn rằng: “Hạt gạo
ấy là thủy châu hóa ra, nếu ngày sau ngươi phản, thì ta niệm chú nước trong
bụng tuôn ra, bảy ngày thây ngươi tiêu ra nước”. Huê Quang tạ ơn rồi thưa rằng:
“Nhờ ơn sư phụ rộng dung, song thiên binh theo bắt tôi hoài biết lánh ngõ nào
cho khỏi?”. Chân Võ tổ sư nói: “Ngươi là hỏa tinh, xuống phía Nam trung giới
mà trốn”. Huê Quang thưa rằng: “Pháp bửu của tôi thầy đã thu hết, tôi biết lấy
chi mà hộ thân?”. Chân Võ tổ sư đưa các pháp bửu lại, Huê Quang từ tạ, rồi
xuống phàm trần.
Còn Chân Võ tổ sư về chầu Ngọc đế. Ngọc đế phán
hỏi rằng: “Trẫm sai khanh bắt Huê Quang, khanh bắt không được chăng?”. Chân Võ
tổ sư tâu rằng: “Thần bắt nó rồi”. Ngọc đế phán rằng: “Sao khanh không giải về,
cho trẫm xử tội?”. Chân Võ tổ sư tâu rằng: “Bởi Huê Quang vì sự sở bức mới làm
phản, nên tôi xin bệ hạ xá tội, cho nó xuống trung giới thu yêu quái với thần
mà lập công”. Ngọc đế y tấu, thưởng Chân Võ tổ sư ba chén ngự tửu. Chân Võ tổ
sư tạ ơn, rồi xuống phàm trần thu Hắc khí.
Khi ấy Chân Võ tổ sư hội với chư tướng, đến phủ
Hoài Châu. Ngó thấy một người đàn ông than khóc. Chân Võ tổ sư hỏi: “Vì cớ nào
mà khóc?”. Người ấy nói: “Tôi họ Lý, tên Châu Phương. Bởi xứ này có một con
yêu, cho người chiêm bao ngó thấy, xưng là Đảng Qui Tịch, diện mạo đen thui,
bảo làng phải lập miếu thờ, dùng lễ tam sinh tế trong ngày Đoan ngũ[44]. Nếu
không lập miếu mà cúng tế y lời mách bảo, thì một ngày sẽ vật chết năm người.
Ai nấy không tin nói chiêm bao mộng mị, nên không lập miếu qui tế, thiệt đến
ngày Đoan ngũ, trong làng chết năm người, hai hôm sau chết luôn mười người nữa
là mười lăm mạng. Bởi cớ ấy làng tôi hãi kinh van vái, lập miếu mà thờ, thiệt
bình an vô sự. Ngày Đoan ngũ năm ngoái Đảng Qui Tịch ứng mộng, nói không dùng
tế tam sinh nữa, Đoan ngũ năm nay phải đưa con gái tôi vào miếu, giáp năm sẽ
trả lại cho. Nếu nghịch mạng thì làng tôi phải chết hết. Ngặt tôi chỉ có một
đứa con gái nên chẳng đành dâng, nếu không dâng thì chết hết cả làng, nên ai
nấy quyết bắt con tôi mà nộp. Tôi khó bề lui tới, nên mới khóc than”. Chân Võ
tổ sư nói: “Không hề chi mà ngươi khóc, chúng ta có phép trừ yêu”. Lý Châu
Phương nghe nói liền lạy. Chân Võ tổ sư nói: “Thôi, ngươi an lòng trở về, bề
nào cũng có ta giải cứu”. Lý Châu Phương tạ từ dời gót.
Còn Chân Võ tổ sư truyền Châu Ngạn Phu hóa ra đứa
con gái còn mình hóa ra Lý Châu Phương, dặn các tướng mai phục ngoài miếu. Liền
dẫn con gái đến cửa miếu, tiêu yêu vào báo lại. Đảng Qui Tịch mừng rỡ ra ngoài,
liền bồng nàng ấy vào động. Chân Võ tổ sư hiện nguyên hình, rút gươm Thất tinh
mà chém. Châu Ngạn Phu cũng hiện nguyên hình nắm cổ Đảng Qui Tịch, Đảng Qui
Tịch gở ra mà chạy, rủi bị Xà tướng hiện hình mà quấn Đảng Qui Tịch la thất
thanh. Chân Võ tổ sư hỏi rằng: “Ngươi chịu đầu hàng chăng?”. Đảng Qui Tịch thưa
rằng: “Đệ tử chịu đầu hàng, cải tà quy chánh”. Chân Võ tổ sư lấy một hạt hỏa
đơn cho Đảng Qui tịch uống, rồi đốt miếu tức thì. Dâng sớ tâu với Ngọc đế. Ngọc
đế phong Đảng Qui Tịch là chức Hảo giảo Đảng nguyên soái, tay cầm búa việt[45],
theo phò tá Tổ sư.
Khi ấy dân làng đốt miếu, đồng chạy tới mà coi.
Lý Châu Phương thuật chuyện, ai nấy đều quỳ lạy. Lý Châu Phương thưa rằng: “Nếu
không có sư phụ ra oai thì nội làng tôi phải chết. Xin sư phụ cho chúng tôi
biết họ tên”. Chân Võ tổ sư viết sáu chữ rằng: Bắc phương Chân Võ tướng quân”.
Liền đằng vân lên thinh không, đầu bỏ tóc xả, tay cầm gươm Thất tinh, đạp Qui,
Xà dưới chân, không có đi giày. Dân làng coi theo kiểu ấy mà lên cốt, lập miếu
thờ phượng, sau Ngọc đế phong làm Bắc đế.
Nói về phủ Tây An có rừng Hắc Tòng, chúa yêu tại
rừng ấy họ Khương tên Tịch, ba chòm râu dài lắm, đầu đội mão kim khôi, tay cầm
song chì hay sát hại thiên hạ. Chân Võ tổ sư đi ngang qua rừng ấy. Khương Tịch
giả ăn cướp đón đường thu bạc vàng mãi lộ, Chân Võ tổ sư nói: Chúng ta là kẻ tu
hành, bạc vàng đâu có mà đòi mãi lộ”. Khương Tịch nói: “Như ngươi không có bạc
vàng, thì phải dạ ba tiếng ta mới cho đi”. Chân Võ tổ sư nói: “Bạc vàng không
có, chớ dạ mấy tiếng lại tiếc gì”. Khương Tịch kêu rằng: “Đạo sĩ”. Chân Võ tổ
sư liền dạ, kêu luôn ba tiếng như vậy. Chân Võ tổ sư liền dạ đủ ba tiếng, có ý
ngỡ là ăn cướp thiệt nên mới dạ mà đi; không lẽ giết kẻ phàm tục. Chẳng ngờ dạ
mới ba tiếng, xảy thấy có cái đồng chung ở trên cao sa xuống, chụp Tổ sư như cá
bị nơm; Khương Tịch trở về rừng. Các tướng lại khiên chuông mà giở lên, ráng
hết sức cũng không nổi. Biết nó là yêu quái nên bảo Hỏa tướng lên báo với Diệu
Lạc thiên tôn.
Khi ấy Hỏa tướng lên báo tin vân vân, Diệu Lạc
thiên tôn theo xuống, niệm chú, rồi tạt chén nước qua phía Đông. Gió chướng
thổi đùng đùng, cái chuông lât ngửa, ngó thấy Tổ sư đã chết rồi. Diệu Lạc thiên
tôn lấy viên thuốc hoàn hồn, bỏ vào miệng Tổ sư, rồi hà hơi ba cái. Chân Võ tổ
sư tỉnh dậy, liền lạy tạ ơn thầy, hỏi thăm về yêu quái? Diệu Lạc thiên tôn nói:
“Con quái ấy quen lớn với Yên đạo sĩ ở sau động. Nay Yên đạo sĩ đi đâu không
biết, để ta hóa ra làm Yên đạo sĩ. Xà tinh hóa ra viên thuốc kim đơn, ta đem dâng
thuốc cho nó, thì nó không nghi, uống thuốc, Xà tinh chui vào bụng rồi thì dễ
thu nó”. Chân Võ tổ sư và các tướng mừng quá, ở đó chờ tin.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn giả làm Yên đạo sĩ, đi
dâng thuốc cho chúa yêu. Tiểu quỷ vào báo lại. Khương Tịch vui mừng liền ra
nghinh tiếp. Yên đạo sĩ giả nói rằng: “Tôi cách đại vương đã lâu lắm, nay nghe
đại vương lao tâm mệt nhọc tôi có luyện được hai hoàn kim đơn, nên dâng cho đại
vương một viên dùng lấy thảo; ngõ hầu trường thọ lâu năm”. Khương Tịch bái tạ,
lãnh thuốc uống liền. Yên đạo sĩ giả hỏi rằng: “Ngươi biết ta chăng?”. Khương
Tịch nói: “Khéo nói khùng thì thôi! Chơi bời với nhau đã lâu, lẽ nào quên lão
tiên mà hỏi đố?”. Yên đạo sĩ giả nói rằng: “Ta không phải Yên đạo sĩ, ngươi xem
lại kẻo lầm?”. Nói rồi liền hiện nguyên hình là Diệu Lạc thiên tôn, Khương Tịch
ngó thấy hãi kinh. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Ngươi uống hoàn thuốc khi nãy là
mãng xà tinh, bởi ngươi dùng đồng chung mà nhốt Tổ sư, nên ta đến đây mà thu
ngươi, mau khá cải tà quy chánh”. Khương Tịch không tin là mãng xà vô bụng.
Diệu Lạc thiên tôn bảo Xà tinh bò cho nó biết. Xà tinh liền bò trong bụng,
Khương Tịch bị đau quá nên té nhào. Diệu Lạc thiên tôn hỏi:”Ngươi chịu đầu hàng
chăng?”. Khương Tịch nói: “Tôi chịu đầu hàng cải tà quy chánh”. Diệu Lạc thiên
tôn kêu Chân Võ tổ sư vào động, đưa một hạt hỏa đơn cho Khương Tịch uống, rồi
kêu Xà tướng ra ngoài. Diệu Lạc thiên tôn đằng vân về trời, tâu với Ngọc đế.
Ngọc đế phong Khương Tịch làm Nhân Chánh Khương nguyên soái. Tay cầm kim
chung[46] và xách búa đồng, theo phò Tổ sư, mà đi thu Hắc khí. Các tướng nói
Khương nguyên soái là hướng mã[47], nên kêu chơi Mã nguyên soái mà thành danh.
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
Thu Cao soái đem về
Nói về phủ Quý Châu, có cầu Thông Thần rất lớn.
Dưới cái cầu ấy có vài muôn binh quỹ, ban ngày không thấy, tối lại hiện ra,
nghe tiếng kêu ghê gớm. Con quỹ đầu dọc, họ Bàng tên Kiều, đầu đội kim cô, bởi
cớ ấy nên lúc chật vật, không ai dám quá cầu. Nếu có chiếc thuyền nào đi ngang
qua, thì binh quỹ kéo kéo người xuống sông mà ăn thịt, nên kiếm chẳng được thi
thể.
Khi ấy Chân Võ tổ sư đi với chúng tướng đến đó
thì trời đã hoàng hôn, nên ghé trên cầu mà nghỉ. Hết canh một nghe gió thổi
lạnh lùng, tiếng khóc rả rít. Chân Võ tổ sư nói: “Cầu này có yêu quái, các đệ
tử phải đề phòng”. Nói vừa dứt lời, xảy thấy quỷ binh áp lên cầu mà kéo. Chân
Võ tổ sư rút gươm ra, bầy quỷ nhảy xuống sông mà trốn. Thủy Hỏa nhị tướng với
Kim Liệt, giận nhảy xuống cầu. Các quỹ binh báo với Bàng Kiều. Bàng Kiều ra cự
chiến. Gặp Thủy Hỏa nhị tướng hỗn chiến một hồi hai tướng đánh không lại liền
nhảy lên cầu. Bàng Kiều đuổi theo. Gặp Châu nguyên soái lấy túi Trang độc, thu
Bàng Kiều với quỷ binh đem nộp cho tổ sư. Chân Võ tổ sư hỏi Bàng Kiều chịu đầu
hàng, liền cho uống một hạt hỏa đơn, rồi dâng sớ cho Thượng Đế. Thượng Đế phong
Bàng Kiều làm Hỗn khí Bàng nguyên soái, cầm siêu đao phò tá Tổ sư.
Nói về Tử vi mắcnạn phải đọa, đầu thai xuống tỉnh
Tây Xuyên, làm con Cao trưởng giả, đặt tên là Cao Viện diện mạo đường đường,
hình dung tươi tốt, nay đã lớn khôn. Nhằm đời Tùy Dương đế vô hậu, sinh được
một vị công chúa đã thành nhân. Bá quan xin kén phò mã, ứng điềm vua có con
trai, họa mai sinh thái tử. Tùy Dương đế y tấu, truyền lập lầu cao cho công
chúa gieo cầu mà kén phò mã. Thời may Cao Viên đi coi hội gieo cầu, công chúa phải
lòng liền ném trái cầu nhằm Cao Viên. Tùy Dương đế liền phong phò mã. Truyền
dọn yến mà đãi.
Hôm sau Tùy Dương đế lâm triều, có ải ngoài dâng
sớ,tâu vì vua Bắc phiên làm phản, Tùy Dương đế nổi giận phán rằng: “Các khanh
ai dám đi dẹp giặc?”. Khâm thiên giám[48] tâu rằng: “Tôi xem phò mã là phước
tướng, xin cho đi áp binh. Còn con Dương Lễ là Dương Cầm Hổ sức mạnh muôn
người, xin làm tiên phong, chắc là thắng trận”. Tùy Dương đế y tấu. Sai Dương
Cầm Hổ làm tiên phong, phò mã cầm binh chinh phạt. Qua đánh với tướng Bắc phiên
là Đạt Đáp Nhị, Dương Cầm Hổ thắng trận, phò mã đuổi binh nà, binh Phiên chết
vô số. Phò mã đắc thắng ban sư.
Khi ấy Tùy Dương đế vui lòng, ban thưởng phò mã
với binh tướng lại truyền làm chay mà cầu con. Song Tùy Dương đế chẳng làm lễ cứ
theo nữ sắc trong cung.
Đến đêm Thất tịch là ngày mồng bảy tháng bảy, có
một ngôi sao sa tại phủ Phò mã; hào quang chiếu sáng lòa; ấy là tướng tinh Phò
mã về chầu trời rồi trở lại.
Lúc này Tùy Dương đế đang uống rượu trong cung
thấy hào quang chiếu sáng thì hãi kinh, phán hỏi nội thị rằng: “Quái vật ấy sa
tại chốn nào?”. Nội thị tâu rằng: “Sa tại dinh Phò mã”. Tùy Dương đế lấy làm
bất bình.
Hôm sau Tùy Dương đế lâm triều, đòi Phò mã vào mà
quở rằng: “Từ trẫm phong Phò mã đã ba năm nay, không thấy sinh quý tử. Hồi hôm
có yêu quái sa vào dinh khanh, chắc khanh là yêu quái, cũng nên xử tử, còn để
làm chi?”. Phò mã kinh hãi quỳ tâu rằng: “Tôi là con Cao Lâm ở tỉnh Tây Xuyên,
không phải là yêu quái. Xin bệ hạ dung mạng kẻo oan cho thần. Nếu một năm nữa
mà công chúa không sinh con, tôi sẽ cam tội thác”. Tùy Dương đế y tấu, bãi chầu
ngự về cung.
Còn Phò mã về phủ, thuật cho Công chúa nghe, Công
chúa kinh hãi, đêm nào cũng thắp hương mà cầu con.
Đêm nọ Công chúa chiêm bao, thấy Thái Bạch kim
tinh mách bảo rằng: “Tuy Dương đế vô đạo nên tuyệt tự đã đành. Còn Phò mã là vì
sao phải đọa, nên cũng chẳng có con”. Nói rồi đi mất. Ngọc Thắng công chúa tỉnh
dậy, nhằm lúc canh ba.
Hôm sau Công chúa nói với Phò mã vân vân. Phò mã
khóc một hồi, ra sau tự vẫn mà thác. Công chúa than khóc rồi tâu cho Phụ vương
hay. Tùy Dương đế động lòng thương, truyền mai táng tử tế.
Nói về linh hồn Phò Mã dật dờ, Thổ địa có ý đem
nạp Diêm vương. Nửa đường gặp Chân Võ tổ sư,thuật hết tự sự. Chân Võ tổ sư liền
dâng sớ cho Ngọc đế, Ngọc đế phong Phò mã làm chức Cửu thiên giáng sinh Cao
nguyên soái, tay tả cầm gươm, tay hữu bưng mâm vàng có để Kim quan là mão, đi
theo phò Tổ sư mà thu yêu quái.
HỒI THỨ MƯỜI BẢY
Trước đã được ngũ lôi
Nói về tỉnh Tây Xuyên có một hòn núi Sát Tư,
trong núi ấy có một cái miếu, trong miếu có năm cốt thần là Châu Xương, Triệu
Quảng, Sử Định, Lưu Trạch, Bùi Tiệm.
Khi ấy Chân Võ tổ sư đi ngang qua miếu ấy, mắc
mưa lớn, nên thầy trò vào miếu mà đụt mưa. Xảy thấy khí yêu nghi ngút. Chân Võ
tổ sư hãi kinh, ngó lên thấy năm cốt thần chuyển động, ý muốn đánh mình. Chân
Võ tổ sư muốn chạy ra, tức thì khói tỏa mịt mù, sấm vang inh ỏi. Chân Võ tổ sư
nhức đầu như búa bổ, ngã xuống nằm mê. Các tướng kinh hãi, sai Cao nguyên soái
đằng vân lên thỉnh Diệu Lạc thiên tôn xuống cứu thầy, trong lúc nguy hiểm.
Lúc này Diệu Lạc thiên tôn đang ngồi trong điện
Trường Sinh, xảy thấy Cao nguyên soái ra mắt. Diệu Lạc thiên tôn hỏi rằng:
“Ngươi theo thầy bắt yêu quái, nay đến đây có chuyện chi”. Cao nguyên soái thưa
hết sự tích. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Ấy là miếu Ngũ lôi, năm vị thiên lôi làm
hại thầy ngươi đó. Nếu muốn cứu thầy ngươi tỉnh lại thì hỏa tốc qua cửa Đông
thiên, mà thỉnh Lôi tổ mới đặng[49]”. Cao nguyên soái thưa rằng: “Chẳng hay Lôi
tổ là ai?”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Lôi tổ họ Đặng tên Thành gọi là Đặng thiên
quân, ở cung Thái Huê. Ngươi hãy đi hỏa tốc”.
Khi ấy Cao nguyên soái từ tạ thiên tôn, liền đến
cung Thái Huê ra mắt Đặng thiên quân, Đặng thiên quân hỏi rằng: “Ngươi theo phò
Chân Võ tướng quân mà thu Hắc khí, nay đến đây có chuyện chi?”. Cao nguyên soái
thưa rằng: “Tôi theo thầy đi thu yêu quái đến một cái miếu có năm vị thần, đánh
với nhau mà sấm sét vang miếu. Thầy tôi bất tỉnh nhân sự, nên tôi đến cầu Diệu
Lạc thiên tôn, Thiên tôn nói năm vị thần ấy là bộ tướng của Thiên quân, dạy tôi
đến cầu Thiên quân cứu thầy tôi, và thu năm vị thần ấy”. Đặng thiên quan nghe
nói, liền lấy cờ lệnh, đi với Cao nguyên soái đến miếu Ngũ lôi.
Nói về chư tướng thấy Đặng thiên quân giáng hạ,
đều đến ra mắt. Đặng thiên quân làm phép, phun nước vào mặt Chân Võ tổ sư. Chân
Võ tổ sư tỉnh dậy, tạ ơn cứu mạng. Đặng thiên quân cầm cờ lệnh, đến trước mặt
năm vị thần hét lên một tiếng. Năm vị thần đều xuống quỳ trước mặt Thiên quân.
Đặng thiên quân niệm chú, năm vị thần ấy hiện nguyên hình là năm cái trống. Đặng
thiên quân, chỉ qua hướng Nam, có năm vị Lôi công bay tới có cánh nhỏ như gà,
tay cầm búa, và lưỡi tầm sét; đến xách năm cái trống đồng quỳ trước mặt Thiên
quân. Đặng thiên quân nói: “Ngũ lôi đừng theo ta làm chi, hãy theo Chân Võ
tướng quân mà đi đánh yêu quái”. Chân Võ tổ sư nghe nói rất mừng. Đặng thiên
quân từ giã, đằng vân về cung Thái Huê. Còn Chân Võ tổ sư thu ngũ lôi, đi với
chư tướng.
Nói về núi Bạch Nham có động Bạch Thạch[50], chủ
động ấy là Điền Oai, nguyên Điền Oai là cây viết của Giang Chân nhân thành
tinh. Bộ hạ của Điền Oai có mười hai tướng, thứ nhất là Sơn Yêu, thứ nhì là
Thủy yêu, thứ ba là Thạch yêu, thứ tư là Nham yêu, thứ năm là Kim yêu, thứ sáu
là Mộc yêu, thứ bảy là Thổ yêu, thứ tám là Hỏa yêu, thứ chín là Nê yêu, thứ
mười là Sa yêu, thứ mười một là Nhân yêu, thứ mười hai là Tinh yêu. Điền Oai có
một pháp bửu là cuốn sổ hơn ba mươi tờ, thần thông hay lắm, hễ thấy ai đi tới
liền giở sổ ra, thì thu vào đó, bắt mà ăn thịt.
Ngày kia Điền Oai sai mười hai con yêu, đem sổ ra
ngoài đường, đón bộ hành thu vào mà ăn thịt. Rủi cho Chân Võ tổ sư và chư tướng
đi ngang qua, bị thu vào sổ, đem về dâng cho Điền Oai. Điền Oai truyền hâm
rượu, đặng bắt các người ấy ra mà làm tiệc. Chân Võ tổ sư nghe nói kinh hãi.
Châu nguyên soái thưa rằng: “Bộ sổ là loài giấy; để chúng tôi đổ lửa quạt gió
thì ra khỏi”. Nói rồi hóa lửa đốt cháy rồi chạy ra được ít tướng. Điền Oai ngó
thấy liền dập lửa, xếp sổ mà ôm.
Còn các tướng ra ngoài, điểm lại còn thiếu Chân
Võ tổ sư và nhiều tướng khác. Nên mấy tướng phải lên ra mắt Tam Thanh, và thưa
các việc như vậy. Tam Thanh vời Diệu Lạc thiên tôn đến mà nói rằng: “Nay đệ tử
ngươi mắc nạn, bị Điền Oai thu vào sổ, nên chúng tướng cầu cứu, ngươi phải ra
công”. Diệu Lạc thiên tôn thưa rằng: “Nếu muốn cứu các người ấy , thì phải đi
thỉnh chủ nó là Giang Chân nhân”. Tam Thanh nói: “Vậy thì ngươi với các tướng
mau mau đi thỉnh họ Giang”. Diệu Lạc thiên tôn từ tạ Tam Thanh, đến am lập tức.
Giang Chân nhân ở núi Bạch Nham, liền ra nghinh tiếp, vào đãi trà nước. Diệu
Lạc thiên tôn hỏi rằng: “Pháp bửu của ông còn đó chăng?”. Giang Chân nhân thưa
rằng: “Pháp bửu của tôi giao cho Điền Oai giữ trong động Bạch thạch”. Diệu Lạc
thiên tôn nói: “Hãy lấy ra xem thử?”. Giang Chân nhân vào động không thấy Điền
Oai, kiếm cũng không được cuốn sổ, hãi kinh ra nói với Thiên tôn rằng: “Không
biết ai lấy rồi, tôi kiếm hoài chẳng được”. Diệu Lạc thiên tôn cười rằng: “Ông
luyện bửu pháp ấy mất công hết nữa nghìn năm, sao không giữ gìn cho kỹ lưỡng?
Tôi cũng vì chuyện ấy mà đến đây”. Giang Chân nhân thưa rằng: “Thiên tôn nói vì
pháp bửu của tôi mà đến đây, chắc là biết bửu pháp tôi lạc tại chỗ nào? Xin làm
ơn chỉ co tôi kiếm”. Diệu Lạc thiên tôn: “Đệ tử ta là Bắc phương Chân Võ tướng
quân vâng chỉ Ngọc chỉ[51] đi thu Hắc khí. Đi ngang núi này, bị tướng ngươi là
Điền Oai giở bửu pháp ngươi mà bắt đệ tử ta và các thiên tướng, lẽ nào ngươi
chẳng hay? Hãy mau mau đi thu Điền Oai, lấy pháp bửu lại mà cứu đệ tử ta, kẻo
phạm thiên điều ngọc luật[52]”. Giang Chân nhân nghe nói hãi kinh, liền theo
Diệu Lạc thiên tôn, đến trước động Bạch thạch mà kêu lớn rằng: “Điền Oai, Điền
Oai mau ra cho ta bảo?”. Điền Oai nghe thầy kêu, không dám ẩn mặt, phải hiện
hình và dẫn mười hai tướng ra ngoài nghinh tiếp. Giang Chân nhân hiện nguyên
hình là ba con mắt, mặt xanh nanh bạc, hét lớn rằng: “Ngươi không hiện nguyên
hình, còn đợi chừng nào nữa?”. Điền Oai ôm cuốn sách trong mình, bởi hiện
nguyên hình là cây viết, nên rớt cuốn sổ xuống đất, Giang Chân nhân chỉ cuốn sổ
một cái, tự nhiên lật ra từ tờ. Chân Võ tổ sư và các tướng đều ra hết, tạ ơn
Diệu Lạc thiên tôn.
Còn Giang Chân nhân bảo Điền Oai hiện hình người
rồi mắng nhiếc một buổi, lại nói rằng: “Ngươi sinh sự làm cho ta mang tiếng,
đáng lẽ giết ngươi mới đáng, song tưởng nghĩa thầy trò cho ngươi theo Tổ sư,
lập công mà chuộc tội”. Diệu Lạc thiên tôn giã từ, đằng vân về thượng giới.
Giang Chân nhân giã từ về am.
Khi ấy Chân Võ tổ sư kêu Điền Oai mà nói rằng:
“Thầy ngươi đã nói vậy, ngươi chịu theo ta chăng?”. Điền Oai quỳ lạy thưa rằng:
“Thầy tôi đã thu pháp bửu rồi, tôi là người vô dụng. Nếu Tổ sư đoái thương phận
hèn mọn, tôi tình nguyện theo hầu”. Chân Võ tổ sư nói: “Nếu ngươi muốn theo ta,
thì phải uống hỏa đơn vào bụng”. Điền Oai vâng lời lấy thuốc mà uống. Chân Võ
tổ sư đi với các tướng khỏi núi Bạch Nham.
HỒI THỨ MƯỜI TÁM
Sau lại thu nhị tướng
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi với các tướng, đến núi
Tụ Huê. Trong núi ấy có động Huỳnh Sa, chúa động ấy là Lưỡng Điền, mình rồng
mặt quỷ, hình dung quái gở dị thường. Nó có một pháp bửu gọi là Dà Thiên
trướng[53], và năm nghìn binh yêu, hằng làm loạn tại núi Tụ Huê, mà nhiễu hại
thiên hạ.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi tới núi ấy, thấy có
vầng mây yêu, tức thì có một vật quái gở mặt quỷ mình rồng, tay, tay xách cái
mùng quăng vãi nửa lừng, tự nhiên tối tăm trời đất, ngó không thấy mặt nhau.
Chân Võ tổ sư kinh hãi, bị Lưỡng Điền lấy cờ mà phất, thu Tổ sư với các tướng
vào cờ, rồi cuốn cờ dựng xuống đất.
Thời may Ngũ lôi đi sau, nên khỏi bị thu vào đó,
thấy Tổ sư mắc nạn với các tướng, liền đằng vân lên cung Thái Huê thưa với Diệu
Lạc thiên tôn về việc thầy cùng các tướng bị bắt như vậy. Diệu Lạc thiên tôn
nói: “Ấy là bộ tướng của Trương thiên quân, không can chi mà sợ. Để ta kêu
Trương thiên quân xuống đó, thu nó và cứu thầy ngươi”. Nói rồi dẫn Ngũ lôi đến
gặp Trương thiên quân. Trương thiên quân nghinh tiếp vào cung hỏi rằng: “Chẳng
hay Thiên tôn đến tôi có việc chi?”. Diệu Lạc thiên tôn nói: “Lưỡng Điền dùng
pháp bửu mà bắt Chân Võ tướng quân, với các nguyên soái, may Ngũ lôi chạy khỏi
mới đến cầu cứu ta. Ta đến nói cho Thiên quân hay mà xử gia tướng”. Trương
thiên quân nghe nói kinh hãi mà than rằng: “Muôn việc về kẻ lớn tôi chịu tội đã
đành. Vậy xin Thiên Tôn trở về cung mà nghỉ, để tôi đi với Ngũ lôi, xuống cứu
Chân Võ tướng quân, và trị tội tiểu tốt”. Diệu Lạc thiên tôn y lời ấy, liền từ
giả trở về cung Thái Huê.
Còn Trương Thiên quân đi với Ngũ lôi, ngó thấy Dà
Thiên trướng giăng nửa lừng trời, liền bảo Ngủ lôi khiêu chiến, dụ nó ra đây sẽ
hay.
Ngũ lôi vâng lệnh xông vào hỗn chiến, Lưỡng Điền
nổi giận, dẫn tiểu yêu vây phủ, Ngũ lôi vừa đánh vừa chạy dụ dần ra tới ngoài
xa. Lưỡng Điền cứ đuổi theo mãi. Ngũ lôi đứng lại cự chiến, trăm hiệp cầm hòa.
Khi ấy Trương thiên quân ở trên mây niệm chú,
ngậm nước phun xuống, cầm gươm mà chỉ Lưỡng Điền; Lưỡng Điền hiện nguyên hình
là tấm lệnh bài. Trương thiên quân lấy lệnh bài cầm tay, niệm thần chú mà thu
Dà Thiên trướng; Dà Thiên trướng hiện nguyên hình là cây cờ lệnh. Trương thiên
quân cầm cờ lệnh giũ một cái Chân Võ tổ sư và các nguyên soái đều văng ra. Ngũ
lôi thuật chuyện vân vân. Chân Võ tổ sư mới rõ, coi lại Dà Thiên trướng thành
cây cờ sắc vàng. Thầy trò đồng tạ ơn giải cứu.
Trương thiên quân niệm chú tấm lệnh bài hiện ra
Lưỡng Điền như cũ, năn nỉ xin theo làm bộ hạ Tổ sư. Trương thiên quân về tâu
với Ngọc đế. Ngọc đế phong Lưỡng Điền làm Hàng yêu Lưỡng nguyên soái[54] tay
cầm cờ vàng theo hầu Chân Võ tổ sư mà thu yêu quái. Lại phong Trương An là
Trương thiên quân làm Chánh Lôi tổ, bên tả có Đặng thiên quân là Đặng Thành,
bên hữu có Tân thiên quân là Tân Giang Phi, đồng coi về Lôi bộ, để coi về việc
trừ yêu quái.
Còn Chân Võ tổ sư đưa một hạt hỏa đơn cho Lưỡng
Điền uống, rồi đi qua núi Hắc Hổ.
Nói về Hắc Hổ sơn có hai hung thần, là Nhậm Vô
Biệt với Trịnh Thế Khoa, hay xách búa ngọc đi đập người ta mà ăn thịt như cơm
hôm.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi đến Hắc Hổ sơn. Nhậm Vô
Biệt với Trịnh Thế Khoa xách búa đón đường, Khương nguyên soái đi trước cự
không lại hai vị hung thần. Khương nguyên soái đổ lửa mà đốt búa ngọc, búa ngọc
cháy ra tro, Khương nguyên soái quăng chuông vàng, nhốt hai tướng mà bắt sống;
đem nộp cho Chân Võ tổ sư. Nhậm Vô Biệt, Trịnh Thế Khoa đều quỳ lạy, xin cho
đầu hàng. Chân Võ tổ sư bảo hai người uống hai hạt hỏa đơn, rồi đồng qua khỏi
núi.
HỒI THỨ MƯỜI CHÍN
Lôi Quỳnh uống thuốc thành thần
Khi ấy Chân Võ tổ sư với các tướng, đi tới núi
Thiên Hỏa, núi ấy có một con yêu là Lưu Hậu, tay cầm roi Phi tiên[55] chân đạp
Phong hỏa luân[56], hằng dạo chơi dưới chân núi. Bảo dân cư tại núi ấy mỗi năm
phải dùng đồng nam đồng nữ mà tế thì vô sự; bằng không thì nó đốt chết hết
không để một nhà. Bởi có ấy nên dân sở tại sợ quá, phải lập hội quy tế, bắt
thăm mà phân phiên nhau. Lý Sơn bắt được số thứ nhất, phải đi mua con trai và
con gái nhà ghèo, đem đến trước miếu. Hai đứa nhỏ khóc vang. Thời may Chân Võ
tổ sư đi tới, hỏi rằng: “Hai cháu vì cớ nào mà bị trói tại đây, đến nổi khóc
than như vậy?”. Đồng nam thưa rằng: “Chúng cháu là con nhà nghèo, ông họ Lý đem
bạc mua đứt. Cha mẹ cháu nói: Nhà nghèo nuôi con không nổi hôm đó hôm no, cũng
có ngày phải chết, thà bán con cho ông họ Lý, cho con nhờ tấm thân, dầu làm tôi
làm mọi mặc lòng, hãy còn no ấm. Mà cha mẹ lại được tiền mua gạo mà nuôi em.
Cháu vâng lời chịu bán cho họ Lý, đến khi về xứ họ Lý nghe nói có một ông thần
tại miếu này đòi tế bằng đồng nam đồng nữ, nên họ Lý mua tôi và em gái này mà
tế thần. Hồi nảy làng xóm với họ Lý đem lễ vật đến tế miếu, rồi trói chúng cháu
tại đây, đến tối này chắc thần ăn thịt, bởi cớ ấy nên hai cháu sợ chết mới khóc
than, xin ông cứu hai cháu mà làm phước!”. Nói rồi khóc nữa.
Khi ấy Chân Võ tổ sư nổi giận, và thấy thương hai
đứa vô cùng. Khương nguyên soái nổi trận lôi đình cầm thương xông vào miếu.
Lúc này Lưu Hậu đang uống rượu trong miếu, ngó
thấy một người cầm giáo xông vào. Lưu Hậu rút cặp Phi tiên nhảy ra cự chiến.
Khương nguyên soái lấy chuông quăng xuống mà chụp Lưu Hậu, rồi bắt sống đem nộp
cho Tổ sư. Chân Võ tổ sư đẹp ý. Lưu Hậu lạy và thưa rằng: “Tôi chịu đầu hàng,
cải tà quy chính”. Chân Võ tổ sư đưa hỏa đơn bảo Lưu Hậu uống. Rồi dâng sớ cho
Ngọc đế. Ngọc đế phong Lưu Hậu làm Vương phủ Lưu thiên quân tay cầm phi tiên,
chân đạp xe Phong hỏa, theo Tổ sư mà trừ yêu.
Ngày kia Ngọc đế lâm triều, các thần tiên tung hô
xong xả, Tư Mệnh Táo quân quỳ tâu rằng: “Nội làng Bang Trước ba trăm nhà, đều ở
ác lắm không thảo cha mẹ, chẳng kính ông bà, vợ chồng không hòa, anh em chẳng
thuận, nhà nghèo thì trộm cướp, nhà giàu ở bất nhân, đứa hung hăng hay giết
người, đàn bà chưởi rủa, không kiêng trời đất, chẳng kể thánh thần. Tôi hằng
ứng mộng khuyên răn, chúng nó nói chiêm bao mộng mị, nên hết phương thế mà trị
nó, phải cứ thật tâu”. Ngọc đế nghe tấu, nổi giận phán rằng: “Như vậy thì đáng
giết hết làng Bang Trước, để làm chi những loại ác nhân”. Tức thì truyền chỉ
Hành Ôn sứ giả Sĩ Quý xuống thu cho tuyệt làng Bang Trước.
Khi ấy Sĩ Quý vâng chỉ Ngọc đế, liền đến làng
Bang Trước thôn, Thổ địa làng ấy ra nghinh tiếp hỏi rằng: “Chăng hay Ôn thần
đến địa phận tôi có chuyện chi?”. Sĩ Quý nói: “Bởi Táo quân về dâng bộ tâu
rằng: “Làng Bang Trước không có một người lành, ba trăm đều dữ. Nên Thượng Đế
nổi giận, sai ta xuống mà hại cho tuyệt ác nhân. Vậy thì Thổ địa lãnh gói Ôn
dược[57] này, ngày mai bỏ xuống giếng, nếu chúng nó uống nước ấy thì sẽ bỏ
mình”. Thổ địa thưa rằng: “Thiệt làng Bang Trước đều dữ hết thảy. Song có một
nhà nghèo, ở giáng canh làng ấy, là Lôi Quỳnh, làm nghệ đậu hũ, người ấy hiền
lành chân chất lắm, hay gánh nước giếng này, nếu bỏ Ôn dược chắc Lôi Quỳnh chết
trước”. Sĩ Quý nói: Như vậy Thổ địa phải mách bảo cho Lôi Quỳnh, bảo đừng dùng
nước giếng ấy mà khốn”. Thổ địa vâng lời.
Rạng ngày Thổ địa hóa ra ông già, đến ngồi dựa
miệng giếng. Gặp Lôi Quỳnh đến gánh nước, Thổ địa nói: “Ngươi hãy gánh nước cho
nhiều mà để dành, đến giờ tỵ sắp sau đừng dùng nước giếng này nữa, bởi Ôn thần
đã đưa gói Ôn dược cho ta giờ tỵ sẽ bỏ xuống giếng, giết cho tuyệt làng này, vì
chúng nó ở ác mười phần, nên trời phạt như vậy”. Nói rồi biến mất. Lôi Quỳnh
nghĩ rằng: “Chắc ông này là Ôn thần, thương mình chân chất, nên mách bảo như
vậy; nếu mình nói lại, chúng không tin; vì cả làng khi thần phật”. Nghĩ rồi
gánh nước về nhà. Vừa đi vừa nghĩ rằng: “Nếu người chết hết mình ở với ai? Thà
liều một mình mà cứu trăm mạng”. Lôi Quỳnh nghĩ như vậy, giờ thìn đến miệng
giếng ngồi coi thời sự.
Đến giờ tỵ thấy ông già cầm gói thuốc nho nhỏ,
mới đem lại miệng giếng mở ra, Lôi Quỳnh giật gói thuốc mà nói rằng: “Thà chết
một mình tôi mà cứu mấy răm mạng”. Nói rồi trút hết thuốc vào miệng, tức thì
thổ tả chết ngay. Thổ địa thấy thi thể Lôi Quỳnh đã bầm đen, không cứu được, vả
lại gói thuốc hết rồi, nên sợ mình phạm tội nghịch chỉ. Liền dẫn hồn Lôi Quỳnh
lên Thiên tào mà tâu lại với Thượng Đế vân vân. Thượng Đế phán khen rằng: “Lôi
Quỳnh là người lành, lại có lòng nhân lớn, quyết chết thế mấy trăm người. Trẫm
phong cho khanh làm chức Oai linh Ôn nguyên soái; và thưởng một bông vàng, và
một tấm kim bài, đề bốn chữ Vô câu thiên hớn[58]. Được phép ra vào Thiên môn,
xuất nhập bất cấm. Khanh hãy theo Chân Võ tổ sư mà thu yêu quái”. Lôi Quỳnh tạ
ơn, rồi tâu rằng: “Xin Thượng Đế xuống chỉ ân xá làng Bang Trước, để thần
khuyên chúng nó cải ác tùng thiện”. Ngọc đế y tấu. Ôn nguyên soái tạ ơn xuống
phàm.
Nói về làng Bang Trước những kẻ đi gánh nước, ngó
thấy thi thể Lôi Quỳnh nằm đó, liền nói lưu truyền với nhau mà bàn luận rằng:
Lôi Quỳnh là người dại, mỗi việc đều sợ tội phước, không dám gây gỗ với ai, cứ
nhịn thua mãi, nào ai hiền hơn Lôi Quỳnh? Nào có thấy phước ở đâu? Té ra cùng
khổ cả đời, lại chết cách dữ tợn, bỏ thây nơi đường sá, cho thiên hạ coi chung.
Sao lại gọi là : Lành dữ đến đâu đều báo ứng? Thiệt là sách nói lầm! Tào Tháo
gian nịnh mà làm vua cho tới mấy đời. Tử Lộ gọi là hiếu trung, Nhan Hồi gọi là
đức hạnh, mà đều chết yểu cả hai! Sao gọi là: Nhơn từ giả thọ? Hể đời nay kẻ
mạnh thì hiếp được kẻ yếu, đứa dại làm cho đứa khôn ăn, rất đỗi là người chữi
gió mắng mưa, còn không thấy trời phạt, sao gọi là: Nghịch thiên giả vong? Hễ
bất nhân thì được giàu sang, già tính cao mưu thì được có của, kẻ yếu thế như
Lôi Quỳnh thì phải chịu nghèo cho tới chết, nào thấy chứa lành gặp lành, thì
chẳng tin chứa dữ gặp dữ. Đạo Phật bày đặt nói nhân quả báo ứng, nào có thấy
Địa ngục cưa xẻ ra làm sao? Hễ kiếp chết là kiếp mất, bề nào nào chết cũng ra
ma, lành dữ cũng phải chết. Rất đỗi Lương Võ Đế lập bảy mươi hai kiểu chùa nào
thấy phước đâu, sau bị Hầu Kiển vây chết đói trong thành, sao Phật không cứu?
Thì Phật có linh hiển đâu? Còn vua Nghiêu nhân đức, mà chín người con trai đều
không được làm vua, phải giao nước cho rể. Còn vua Thuấn đứng đầu nhị thập tứ
hiếu còn sinh con bất hiếu là Thương Quân, sao gọi là hiếu thuận hoàn sinh hiếu
thuận tử? Còn ông Cổn là người dữ tợn, sao lại sinh ông Đại Võ hiền lương, sau
được làm vua nhà Hạ? Sao gọi là ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi? Tưởng lại
Tam giáo đều nói lầm, không có chi chắc. Đức Khổng tử tin việc cúng tế, song
xét cho kỹ, chẳng thấy hồn ăn bao giờ, chi bằng còn sống ta ăn uống no say,
chơi bời cho toại chí, để chết có đơm quải cũng vô ích, lẽ nào hồn được hưởng
hay sao? Vả lại con người ở đời, phải có trí khôn mới được, đừng tin kinh sách
là nói gạt thế gian làm lành cả đời, bất quá như Lôi Quỳnh mà thôi, không phước
chi mà trông cậy”. Ai nấy đều bàn luận reo cười, không ai làm phước chôn xác
Lôi Quỳnh làm thêm luận bàn biếm nhẻ.
Đêm ấy nhằm lúc canh ba, nhà nhà đều ngủ, ai nấy
đều chiêm bao thấy Lôi Quỳnh về, áo mão nghiêm trang, cầm kim bài sáng chói,
kêu các người ấy mà nói rằng: “Ta là Lôi Quỳnh, hồi ban ngày đi gánh nước tại
giếng, gặp Thổ địa hóa ra ông già cầm gói thuốc nói với ta rằng: Tư Mệnh Táo
quân về tâu với Ngọc đế, nói tội làng Bang Trước không có một người lành, khi
dễ tam giáo, không tin nhân quả, cha chẳng lành, con chẳng thảo, anh em không
hòa thuận, vợ chồng không hòa, bằng hữu hại nhau, ở không tín thật, kẻ nghèo
trộm cướp, nhà giàu bất nhân, ỷ thế hại người, hiếp kẻ lương thiện không tin
báo ứng, ích kỷ hại nhân. Táo quân ứng mộng khuyên răn, các ngươi nói chiêm bao
mộng mị, không kính thánh thần. Bởi cớ ấy nên Ngọc đế sai Ôn thần đem Ôn dược
giao cho Thổ địa bỏ xuống giếng làm cho tuyệt cả làng này. Bởi ta hiền lành nên
Thổ địa mách bảo ch hay trước, biểu đừng uống nước giếng này mà khốn. Ta động
lòng thương các ngươi, giật gói thuốc mà uống, thà một mình chết, mà cứu mạng
cả làng. Thổ địa dắt hồn ta về tâu với Ngọc đế như vậy. Ngọc đế khen ta có
nhân, phong ta làm chức Oai linh Ôn nguyên soái, lại ban kim bài. Ta tâu xin
miễn tội cho các ngươi, để ta về ứng mộng khuyên các ngươi cải dữ làm lành;
mong ơn Ngọc đế y tấu. Ta giáng hạ trong ban ngày, nghe các ngươi nghị luận
nhiều điều trái lẽ chê thánh nhân với Phật Lão nói lầm, ấy là tội khi Tam giáo
rất nặng. Ta phải cắt nghĩa cho các ngươi nghe, việc Lương Võ đế lập chùa thật
là vô ích, bởi thu của nhân dân mà làm việc cầu danh, chẳng ích chi cho Phật,
thêm sự khổ cho lê dân, bị ngạ tử Đài thành là số mạng, Phật chẳng hề cứu ai.
Kinh Phật nói ai làm lành thì gặp phước, ai làm dữ thì mắc họa, chẳng vì sự
cúng tế thờ phượng mà thần cho phước, chẳng phải thất lễ mà cho họa. Tuy phu tử
không nói chuyện quái lực loạn thần làm chi, chớ cũng nói việc quỷ thần là quả
có, bởi có quỷ thì phải có thần, có thần phải có Thiên đường, có quỷ thì phải
có Địa ngục, sự hành phạt tội quỷ, cũng như luật Dương gian, nên lưới Dương
gian dễ trốn, luật âm phủ khó qua, sự luân hồi báo ứng như vậy, một là quả báo
nhãn tiền, hai là báo ứng cho con cháu, mới gọi là nhà chứa lành phước dư tới
đời sau, nhà chứa dữ họa để tới con cháu, chẳng những con cháu mà thôi, đầu
thai kiếp sau còn báo ứng nữa, bởi báo ứng ba đời, nên gọi là Tam thế nhân quả.
Như người đời nay hiền lành mà được phước, hung dữ liền mắc họa ấy là báo ứng
kim thế. Còn người nay làm lành mà mắc họa, bởi kiếp trước bất nhân, nên đời
nay chịu khổ, sự làm lành đời nay thì đời sau sẽ hưởng phước gọi là báo ứng lai
thế[59]. Như người đời nay làm dữ mà chưa mắc họa là tại kiếp trước chứa nhân
tích đức rất nhiều, nên đời nay hưởng phước chưa hết, còn sự dữ đời nay, thì
kiếp sau phải trả. Tuy là sự u minh báo ứng không sai, các ngươi phải sửa mình
mà làm lành, ăn năn chừa lỗi, thì tội trước tiêu lần. Chớ như luận sự yểu thọ,
không lấy làm chắc. Tuy Nhan Hồi, Tử Lộ không trường thọ, là tại số trời, song
cũng làm thánh hiền hết thảy. Còn Tào Tháo tuy sống lâu mà sau chết bị tù nơi
địa ngục, dù con cháu cướp nước Hán, sau bị Tấn chuyên quyền, báo ứng bằng hai
khi Tào soán Hán. Còn luận sự Nghiêu nhân đức mà sinh con bất hiếu, không được
nối ngôi, thật là lầm quá. Nếu chín người con trai vua Nghiêu thất đức thì sau
vua Thuấn dễ trị vì lắm sao? Bởi tài đức hiếu hạnh người con vua Nghiêu còn
thua vua Thuấn. Nên vua Nghiêu truyền hiền. Chớ không phải con vua nghiêu không
hiếu thuận, Còn Cổ Tẩu với ông Cổn sự chi bất hiếu, mà không được sinh con hiếu
thuận tài năng? Bởi Cổ Tẩu ở bất từ nên vua Thuấn mới được đại hiếu, ông Cổn
bất tài nên Đại Võ phải ráng kẻo hư giòng giống của cha. Như các ngươi biết ăn
năn, cải dữ làm lành, thì sau sẽ được hưởng phước. Nếu không chừa lỗi cũ, e họa
đến chẳng xa, ta khó nổi cứu rỗi”. Nói rồi biến hóa thinh không.
Khi ấy ai nấy giật mình thức dậy, kinh hãi đổ mồ
hôi; nhà nào hỏi thăm nhau, cũng nói thấy điềm chiêm bao như vậy, bàn luận với
nhau cả canh giờ.
Rạng ngày làng xóm nhóm lại, hỏi thăm nhau việc
chiêm bao hiệp lại như một, bèn bàn luận với nhau rằng: “Nay mới rõ có quỹ
thần, quả thật báo ứng không sai. Nhờ có thần Oai linh thế tử cho chúng ta, lại
rỗi tội hiện về mách bảo, chúng ta phải tẩn táng cốt ngài, và lập miếu thờ
phượng”. Từ ấy làng Bang Trước cải dữ làm lành, đều được bình an vô sự.
Khi ấy Oai linh Ôn nguyên soái đến ra mắt Chân Võ
tổ sư. Chân Võ tố sư hỏi ra sự tích mới hay, các tướng đồng khen ngợi, liền đi
qua tỉnh Hiệp Tây.
Nói về tỉnh Hiệp Tây có hòn núi Xích Vân. Trong
núi ấy có con yêu tên là Điền Văn hay nhiễu hại thiên hạ. Ôn nguyên soái giắt
kim hoa đi ngang qua, Điền Văn bị hào quang kim hoa chiếu nhằm, liền hiện
nguyên hình là cái chén ngọc. Ôn nguyên soái đem dâng cho Tổ sư, Chân Võ tổ sư
thưởng cho Ôn nguyên soái thu dụng. Đồng đi qua hòn núi Linh Di.
Nói về trong núi Linh Di có một cái động Thạch
Thành. Chúa động Thạch Thành, mặt trắng môi son tay cầm Lôi tiên[60] võ nghệ
cao cường đệ nhất. Bị các nguyên soái phá động, một mình Thạch Thành đánh cầm
hòa, bởi các thiên tướng đông đảo lại nhiều pháp bửu, nên Thạch Thành trở tay
không kịp, bị các tướng bắt đem nộp cho Tổ sư. Thạch Thành cúi lạy, xin chịu
đầu hàng. Chân Võ tổ sư cho Thạch Thành uống hỏa đơn, rồi dâng sớ tâu với Ngọc
đế phong Thạch Thành làm chức Thần lôi Thạch nguyên soái theo phò tá Tổ sư.
Nói về núi Tập Hỗ có hai con yêu, Cao Đồng Dõng
với Vương Thiết. Cao Đồng Dõng xách hai búa ngọc, có tài biến ra hùm, còn Vương
Thiết mặt thiết, sở trường cây giáo. Cao Đồng Dõng hay hóa cọp mà hại người.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi ngang qua núi Tập Hổ
thấy có hai ngọn yêu khí, liền sai Triệu nguyên soái, với Khương nguyên soái đi
đánh. Vương Thiết đánh với Triệu nguyên soái chín trăm hiệp cầm đồng. Triệu
nguyên soái quăng hỏa sách và giục Hắc Hỗ ra. Vương Thiết kêu Cao Đồng Dõng trợ
chiến. Vương Thiết phóng cây thương, sai thần hỗ Đông Sơn trợ lực. Cao Đồng
Dõng quăng búa ngọc sai thần hỗ Tây Sơn trợ lực. Triệu nguyên soái cự không
lại. Khương nguyên soái xông vào trợ chiến, quăng hỏa đơn đốt hai cọp chết hết,
rồi lấy Kim chung ném lên, nhốt Cao Đồng Dõng và Vương Thiết bắt đem nộp cho Tổ
sư. Chân Võ tổ sư hỏi: “Hai ngươi chịu đầu hàng chăng?”. Cao Đồng Dõng và Vương
Thiết đều quỳ lạy thưa rằng: “Tổ sư rộng dung, hai tôi chịu theo hầu dưới
trướng”. Chân Võ tổ sư bảo Cao Đồng Dõng, Vương Thiết uống hai hạt hỏa đơn. Rồi
dâng sớ tâu với Ngọc đế… Ngọc đế phong Vương Thiết và Cao Đồng Dõng làm Hổ Khưu
Vương, Cao nhị nguyên soái, theo phò tá Tổ sư mà trừ yêu quái.
HỒI THỨ HAI MƯƠI
Mạnh Sơn tha tù được phước
Nói về tỉnh Quảng Tây tù tử tội đông lắm, quan
chủ ngục là Mạnh Sơn coi tù tỉnh ấy. Đến ngày hai mươi lăm tháng chạp, tám trăm
tội nhân khóc than trong khám. Mạnh Sơn hỏi rằng: “Ngày thường các ngươi không
khóc, sao hôm nay khóc một lược vang trời? Bởi cớ chi phải nói thât”. Tám trăm
tù nhân đồng thưa rằng: “Tuy chúng tôi có tội, song cũng có một điểm hiếu tâm.
Nay gần mãn năm mà không gặp cha mẹ, nên động lòng tủi phận khóc than”. Mạnh
Sơn nói: “Ta nghe lời hiếu đạo cũng động lòng, vì biết thủy nguyên mộc bổn[61].
Vậy thì ta làm phước cho các ngươi về viếng song thân. Đến mồng năm tháng giêng
năm tới, các ngươi phải tựu cho đủ mặt, đặng ta điểm danh mà trình số với quan
trên. Nếu trễ nãi thì ta phải bị tội nặng”. Các tù nhân đồng quỳ thưa rằng:
“Lão gia đã mở lượng rộng cho chúng tôi về thăm cha mẹ gần mười ngày, thật ân
sâu như biển. Lẽ nào chúng tôi dám trễ nãi, mà hại lão gia sao!”. Nói rồi liền
bái tạ lui về.
Đến rạng đông, ngày mồng năm tháng giêng, mấy
trăm tù nhân đều tới y số, không thiếu người nào, Mạnh Sơn lấy sổ ra mà kêu tám
trăm đủ mặt y số. Mạnh Sơn vui lòng đẹp ý mà khen rằng: “Các người không phải
là tội nhân, vì nói ra thì nhớ lời thật là người trung tín, vả lại có hiếu với
cha mẹ, mà lại biết ân nghĩa của ta, không úy tử tham sinh mà hại ân nhân,
thiệt là anh hùng khí khái”.
Qua năm sau, ngày hai mươi lăm tháng chạp, Mạnh
Sơn cũng tha về như lệ cũ thật hôm mồng bốn tháng giêng, tám trăm tù nhân đã
tựu trước, không đợi mùng năm. Mạnh Sơn điểm y số, rồi khen rằng: “Các ngươi
thật là người trung tín lắm! Lẽ thường nhiều người hay làm mặt phải, rồi lâu
lại đổi lòng làm quấy, chớ như các người càng ngày càng ở phải hơn trước, thật
lâu ngày mới biết lòng người! Như các ngươi, cải ác tùng thiện, bỏ điều hung dữ
gian tham muốn về lo việc sinh phương, thì ta thả hết thảy”. Tám trăm tù nhân
đồng quỳ lạy thưa rằng: “Chúng tôi bị nhà giàu bất nhân làm khổ, nên hết thế
làm ăn, vì đói khát nên phải trộm cướp nhà giàu, bởi không phải là dân chuyên
nghiệp mới chúng bắt, còn kẻ thì bị quân hoang hiếp đáp, tức phải đua tranh, vì
nhẫn không được nên phạm tội. Song bị giam cầm hai năm nay, đã biết ăn năn chừa
lỗi, nhờ ân lão gia phóng xả, lẽ nào chúng tôi không cải ác tùng thiện, con noi
dấu cũ làm chi? Song e một điều, nếu lão gia tha chúng tôi, thì lão gia mắc
tội, chúng tôi chẳng nở lòng! Vậy thì chúng tôi ở đây, chờ dịp Thiên tử ân xá
cũng may. Dù giam hậu tới kỳ chết cũng đành, chớ lẽ đâu tội chúng tôi mà để lão
gia chịu thế?”. Mạnh Sơn cười rằng: “Cứ theo lời ấy chắc các ngươi đã cải dữ
làm lành. Song con kiến cũng biết tiếc mạng, lẽ nào ta lại liều mình, miễn các
ngươi về xứ sở lo việc làm ăn. Còn ta ở nán lại, ta sẽ lo kế thoát thân, các
ngươi đừng lo việc ấy. Hãy đi cho mau”. Tám trăm tù đồng rơi lệ, lạy tạ lui về.
Nói qua tri phủ Đằng Công Nghĩa đúng một tháng,
đòi Mạnh Sơn đem sổ mà điểm tù trước cửa phủ. Mạnh Sơn bẩm rằng: “Tôi cho bọn
họ về thăm nhà, ít hôm sẽ trở lại y số”. Đằng Công Nghĩa hãi kinh, xuống đề lao
xem thử, thật không có một tên tù nào. Giận quá, đánh Mạnh Sơn bốn chục roi,
rồi bắt đi kiếm tù lập tức. Mạnh Sơn xách giáo có quân lính theo sau.
Khi ấy Mạnh Sơn đi tới rừng hoang nghĩ rằng: “Nếu
mình kiếm ít tù nhân, sai họ đi kêu nhau, ít ngày cũng tựu đủ y số. Song đã tha
ra nó mới mừng rỡ, rồi sai bắt lại, tội nghiệp biết chừng nào! Té ra thất tín
với họ! Thà liều một mình mà cứu tám trăm mạng cũng chẳng ức chi, chẳng hề
phiền quan trên trách phạt bó buộc, tại mình làm phạm phép, nên quan trên mới
hành tội. Mình có chết thì người mới khỏi tội”. Nghĩ như vậy, nên trồng cán
giáo dưới đất, để lưỡi giáo xiên xiên, quyết nhào vô ngọn giáo mà chết. Ai dè
có con thỏ trắng, chạy lại đụng giáo ngã đi. Mạnh Sơn dựng lên, thỏ lại đụng
nữa, làm như vậy ba lần. Ấy là Thổ địa hóa bạch thố mà cứu mạng.
Xảy thấy thiên sứ đến nói rằng: Ta vâng chỉ Ngọc
đế phong Mạnh Sơn làm chức Phong đô Mạnh nguyên soái, có ban áo mão hia giáp và
cây giáo Huỳnh long, với một hoa Quỳnh giắt trên mão kim khôi, vì khen Nguyên
soái có nhân lắm, liều mình cứu tám trăm người. Vậy Nguyên soái hãy thay đổi y
phục, thì bay lên ngồi trên vầng mây xanh đặng sẽ bay qua hướng Bắc, phò Chân
Võ tổ sư đi thu yêu tinh”. Mạnh Sơn mừng quá bái tạ vâng lời, nhảy lên mây
xanh, bay qua phía Bắc. Thiên hạ đều thấy như vậy, mấy tên lính về báo lại. Tri
phủ Đằng Công Nghĩa nói: “Ta ở lại phủ nghe quân canh cửa vào báo rằng, Có một
người bay trên mây qua phía Bắc. Ta ra xem thấy kim khôi giáp vàng rực rỡ,
không dè là Mạnh Sơn thành thần. Vậy ta phải làm tờ trình cho quan tỉnh dâng sớ
về trên”. Nói rồi làm y lời.
Cách ít ngày có chỉ vua xuống ban khen Mạnh Sơn
và tha tám trăm tù nhân không cho tập nã. Thiên hạ đồn rất nhiều, không bao lâu
thấy chỉ dụ khắp nơi. Tám trăm tù nhân đều mừng và cám cảnh, họ lo sinh phương,
cải ác tùng thiện, những trộm cướp và kẻ hung hoang, cũng hồi tâm giải nghiệp.
Nhắc lại, khi Mạnh nguyên soái đến ra mắt Chân Võ
tổ sư và thưa hết mọi việc. Chân Võ tổ sư với các tướng đều khen.
Nói về đất Trần Sa có một con yêu là Dương Bưu
hay đào hầm cho thiên hạ sụp xuống đất, bắt mà ăn thịt.
Khi ấy Chân Võ tổ sư đi với các tướng, tới đất
Trần Sa. Chân Võ tổ sư nói: “Trước mặt có yêu khí lên thấu mây xanh, tướng nào
dám đi tiên phong mà bắt nó?”. Triệu nguyên soái thưa rằng: “Tôi xin lãnh
mệnh”. Nói rồi cưỡi cọp đi trước, không dè Hắc hỗ sụp hầm, vừa cọp vừa người
đều bị sụp xuống. Chân Võ tổ sư bước tới cũng bị sụp xuống nữa. Thủy Hỏa nhị tướng
nhảy xuống hầm. Hỏa tướng cõng Tổ sư bay lên, Thủy tướng cõng Triệu nguyên soái
đưa lên với Hắc hỗ, rồi nhảy xuống hầm hóa ra con rồng, phá hầm ấy thành sông,
hóa nước đầy dẫy. Dương Bưu kinh hãi nhảy lên bị Triệu nguyên soái bắt được nộp
cho Tổ sư. Dương Bưu lạy lục xin đầu hàng. Chân Võ tổ sư cho uống hỏa đơn, liền
dâng sớ tâu với Ngọc đế… Ngọc đế phong Dương Bưu làm chức Địa kỳ Dương nguyên
soái theo làm bộ hạ Tổ sư.
Nói về huyện Long Môn có một con yêu là Lý Soái ở
tại trại Long Môn, hằng đón bộ hành mà thu tiền mãi lộ, nếu không tiền mãi lộ
thì Lý Soái bắt mà ăn thịt. Nay Chân Võ tổ sư với các tướng đi ngang trại ấy Lý
Soái đón đường thu tiền mãi lộ. Bị Châu nguyên soái nhảy ra hỗn chiến. Lý Soái
cầm trái chùy bằng đồng nặng quá, nên Châu nguyên soái cự không lại, liền trá
bại, lấy túi Trang độc quăng ra, thu Lý Soái vào đó, đem nộp cho Tổ sư. Chân Võ
tổ sư hỏi: “Ngươi chịu đầu hàng chăng?”. Lý Soái liền chịu, Chân Võ tổ sư cho
uống hỏa đơn rồi cũng dâng sớ về tâu với Ngọc đế. Ngọc đế phong Lý Soái làm
chức tiên phong, và kiêm chức Lý nguyên soái, cầm chùy đồng theo bảo hộ Tổ sư.
HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT
Ân Cao viện tôn sư
Nói về chúa động Tử Thanh là Phó Ứng có cái Chiếu
ma cảnh[62], nếu chiếu vào mặt người, thì tối con mắt, phải sốt mặt té nhào.
Ngày kia Chân Võ tổ sư với các tướng gần tới động
Tử Than. Phó Ứng ra đón đường, các tướng phủ vây hỗn chiến. Phó Ứng lấy Chiếu
ma cảnh ra mà soi, Chân Võ tổ sư thấy các tướng đều choáng ván, mở mắt không
ra. Chân Võ tổ sư biết vì kiếng ấy nên chóa mắt. Liền cầm gươm chỉ về hướng Nam
lửa cháy rần rần, Phó Ứng chiếu kiếng không linh nghiệm nữa. Bị Chân Võ tổ sư
bắt được, Phó Ứng chịu đầu hàng. Chân Võ tổ sư cho uống hỏa đơn, rồi dâng sớ
tâu với Thượng Đế. Thượng Đế phong cho Phó Ứng làm chức Cử sát Phó nguyên soái,
cầm Chiếu ma cảnh theo phò tá Tổ sư.
Nói về núi Thái Bảo có mười ba con yêu, xưng hiệu
là Thập Tam Thái Bảo: Thứ nhất là Siêu Văn, thứ hai là Trịnh Khanh, thứ ba là
Châu Vương, thứ tư là Bành Cang, thứ năm là Phạm Ý, thứ sáu là Trương Thân, thứ
bảy là Lý Lộ, thứ tám là Vương Lễ, thứ chín là Ngô An, thứ mười là Lưu Cang,
thứ mười một là Điền Năng, thứ mười hai là Thẩm Hựu, thứ mười ba là Châu Lập.
Mười ba yêu ấy đều có phép dị kỳ, nếu ra đánh với ai thì chúng nó đấm mình
chúng nó, tự nhiên binh tướng rũ liệt tay chân. Chúng nó buộc dân sở tại mỗi
năm phải dâng mười ba đồng nam mười ba đồng nữ mà tế chúng nó. Hại đồng nam
đồng nữ đã nhiều.
Nhằm ngày Đoan ngũ là mồng năm tháng năm. Mười ba
Thái Bảo ra ngoài, vừa gặp Tổ sư với các tướng đi ngang qua, bị Thập Tam Thái
Bảo đón lại. Các tướng hỗn chiến với chúng nó. Chúng nó đấm ngực chúng nó, mà
Chân Võ tổ sư với các tướng tức dội rêm mình. Khương nguyên soái cõng Tổ sư mà
chạy. Thủy Hỏa nhị tướng bảo hộ hai bên, còn các tướng chạy theo sau không ai
dám cự. Chân Võ tổ sư nói: “Không biết lũ yêu ấy căn cước ở đâu mà thần thông
như vậy?”. Khương nguyên soái nói: “Chắc mười ba con yêu ấy, cũng là thiên
tướng trốn xuống trần, nên mới thần thông như vậy. Tưởng có Tam Thanh biết thấu
cội rễ mà thôi”. Chân Võ tổ sư nói: “Vậy thì ta cùng ngươi đồng lên ra mắt Tam
Thanh mà hỏi thăm việc ấy”. Nói rồi hai thầy trò đồng đằng vân.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn đến hầu Tam Thanh, xảy
thấy Chân Võ tổ sư với Khương nguyên soái đến ra mắt, rồi thưa về việc Thập Tam
Thái Bảo… Diệu Lạc thiên tôn: “Thập Tam Thái Bảo không phải quái vật thành
tinh. Ấy là bộ hạ ông Ân Cao, ở Nam Bắc giới[63]. Phải thỉnh Ân Cao thu chúng
nó mới được”. Tam Thanh nói: “Như vậy thì Diệu Lạc thiên tôn phải đến Nam Bắc
giới núi Thủy Hỏa mà thỉnh Ân Cao”. Diệu Lạc thiên tôn vâng lệnh đi liền.
Nói về Ân Cao trấn tại Nam Bắc giới, xảy thấy
Thiên tôn đến liền ra nghinh tiếp mời vào. Diệu Lạc thiên tôn nói: Kim Khuyết
hóa thân nay vâng Ngọc chỉ xuống phàm mà thu Hắc khí. Đi tới núi Thái Bảo, bị
mười ba con yêu cản đường, nên về cáo với Tam Thanh thánh thượng. Tam Thanh
thánh thượng sai tôi đi thỉnh ông trợ chiến tức thì, chẳng nên trễ nãi”. Ân Cao
nghe nói, liền sửa soạn rồi ra đi. Thấy Huỳnh Phan và Báo Vĩ đón đường, Ân Cao
cười rằng: “Ta bấy lâu chẳng hay dùng chúng bây, không dè chúng bay đã thành
yêu quái!”. Nói rồi hà hơi ra, hiện chân hình như thần Thái Tuế, khắp mình
chiếu hào quang, ba mặt bốn tay, hằm hằm bước tới, Huỳnh Phan, Báo Vĩ thấy thật
chủ liền hiện nguyên hình là cây phướng với cây giáo đuôi beo. Ân Cao cầm
phướng, xách giáo mà đi. Xảy gặp Chân Võ tổ sư với Khương nguyên soái. Hỏi ra
sự tích, đồng đến núi Thái Bảo. Ân Cao nói với Chân Võ tổ sư rằng: “Tuy chúng
nó là bộ tướng của tôi, song nó đã thành yêu, e không nhìn chủ, vả lại nó thần
thông quảng đại, ắt là phải đánh mới xong, e Tổ sư đi theo bị bệnh. Vậy thì để
một mình tôi đến đó, coi thử lẽ nào, rồi sẽ thương nghị”. Chân Võ tổ sư nói
phải. Ân Cao liền đi đến cửa trại. Thập Tam Thái Bảo xông ra hỗn chiến. Ân Cao
bại tẩu, về thưa với Tổ sư. Chân Võ tổ sư buồn quá. Ân Cao nói: “Tổ sư đừng
phiền muộn, bởi nó đông nên cự không lại, còn thầy tôi là Tát chân nhân ở tại
Nam Thiên động. Để tôi đi thỉnh gia sư, thì thu chúng nó phải được”. Chân Võ tổ
sư nói: “Vậy thì ông đi thỉnh sư phụ cho mau”.
Khi ấy Ân Cao đằng vân qua động Nam Thiên, vào
lạy thầy. Tát chân nhân hỏi: “Ngươi đi cầu khẩn việc chi?”. Ân Cao thưa việc
của Thập Tam Thái Bảo, Tát chân nhân nói: “Bởi Tổ sư là Kim Khuyết hóa thân,
nên ta phải trợ người mà thu yêu quái. Nếu người khác ta chẳng hề đi”. Nói rồi
lấy pháp bửu đi với Ân Cao đến ra mắt Chân Võ tổ sư, Chân Võ tổ sư mừng rỡ đàm
đạo một đêm.
Rạng ngày Tát chân nhân sai Ân Cao khiêu chiến.
Thập Tam Thái Bảo giao chiến một hồi, chúng nó vây phủ, quyết bắt Ân Cao. Chẳng
ngờ Tát chân nhân lấy Bạch hồng sách[64] quăng lên, phun nước niệm chú. Bạch
hồng sách bay ra xỏ đầu Thập Tam Thái Bảo một dọc, hiện nguyên hình là mười ba
cái sọ đầu người ta. Tát chân nhân lấy mười ba hoàn hỏa đơn bỏ vào mười ba cái
sọ đầu. Rồi rút ra một cái sọ gắn vào mão cho Ân Cao đội. Còn mười hai cái xỏ
xâu như chuỗi, cho Ân Cao đeo trên cổ, như chuỗi bồ đề, bảo Ân Cao theo phò Tổ
sư đi thu yêu quái. Chân Võ tổ sư tạ ơn. Tát chân nhân giã từ về động.
Còn Chân Võ tổ sư dâng sớ tâu với Ngọc đế… Ngọc
đế phong Ân Cao làm chức Đại tư Thái tuế Ân nguyên soái, theo phò Tổ sư.
HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI
Thủ Kiên thu Vương Ác
Nói về tỉnh Hà Nam có miếu Đô Quản, vị thần miếu
ấy họ Vương tên Ác, ứng mộng cho nhân dân, đến ngày mồng sáu tháng sáu, phải
dùng mười con bò, mười con dê, mười con dê, mười con heo, mười bình rượu mà
cúng tế thì bình an. Bằng không thì Vương Ác bắt cả làng mắc chứng thiên thời.
Bảo cớ ấy nhân dân hằng lo mỗi năm cúng tế, dân nghèo phải cầm áo bán đồ mà đâu
đậu; thậm chí kẻ nghèo quá phải đợ vợ bán con.
Ngày kia có ông Tát Thủ Kiên là thần tiên, giả
làm thầy thuốc mà đi cứu người lương thiện. Tới miếu Đô Quản thấy như vậy, liền
đốt miếu tức thì. Vương Ác không dám cự. Đợi Tát Thủ Kiên đi khỏi, rồi hành
bệnh nhân dân, mười nhà đau hết chín, ban đêm mách bảo rằng: «Tại các ngươi
không gìn giữ để cháy miếu ta. Hãy làm lại như cũ, nếu không thì ta đốt hết xứ
này ». Nhân dân bàn luận việc chiêm bao, đều rủ nhau đâu đậu.
Nói về Tôn Thọ có một đứa con gái tên Thiên Kim
mới mười tám tuổi. Vương Ác ngó thấy liền hóa ra một người con trai, ban đêm
hiện vào phòng mà ăn nằm với nàng ấy, chịu một tháng võ vàng ; coi hình dung
khác thường lắm. Nội nhà lo sợ, không biết làm sao. Vì Thiên Kim có nói thật
với Tôn Thọ, nên Tôn Thọ không chạy thuốc, cứ rước thầy trừ tà, những thầy non
tay đều không dám chữa.
Ngày kia Chân Võ tổ sư đi tới nhà Tôn Thọ trời đã
hoàng hôn liền vào nhà xin tá túc. Tôn Thọ làm thinh ngồi châu mày ủ mặt. Chân
Võ tổ sư hỏi: «Vì cớ nào mà trưởng giả buồn? Chúng tôi là kẻ tu hành xin tá túc
một đêm, chẳng hay làm chi trái lẽ mà sợ». Tôn Thọ nói: «Không phải tôi buồn về
việc sư phụ và các ông tá túc, bởi tôi có một việc riêng, nên buồn rầu muốn
chết». Chân Võ tổ sư hỏi chuyện chi? Tôn Thọ nói: «Tô có một con gái mười tám
tuổi, tên là Thiên Kim bị yêu quái nhiễu hại, nay bệnh gần chết, nó cũng tới
hoài. Không biết phép chi mà trị nó cho được. Bởi cớ ấy nên mới ưu phiền». Chân
Võ tổ sư nói: «Tưởng là việc chi, chớ việc trừ yêu quái không khó. Để thầy trò
tôi bắt nó mà đền ơn». Xảy thấy Huê Quang bước vào, lạy Tổ sư mà nói rằng: «Đệ
tử đi tìm sư phụ lâu lắm mới được. Bởi bấy lâu đệ tử ẩn mặt phía Nam này mà đợi
sư phụ, nay sư phụ mới tới». Chân Võ tổ sư thuật chuyện yêu quái nhiễu hại
Thiên Kim cho Huê Quang hay. Nói chưa dứt lời xảy thấy trên mây bay xuống một
người, mình cao chín thước, mặt đen như mực tay cầm kim tiên[65]. Tôn Thọ nói:
« Nó đã hiện hình xuống đó! ». Chân Võ tổ sư sai Huê Quang cự chiến. Huê Quang
vâng lệnh, xách giáo nhảy lên mây, nạt lớn rằng: « Yêu tinh mau đầu hàng, nếu
cự địch không toàn tính mạng ». Vương Ác nổi giận đánh liền, ba trăm hiệp không
phân thắng bại. Vương Ác quăng Kim tiên, hóa ra nghìn nghìn muôn muôn đánh
xuống, Huê Quang quăng cục Tam giác kim chuyên cũng hóa muôn muôn nghìn nghìn
mà cự với Kim tiên.
Giây phút hai người thu phép lại đánh nữa, năm
chục hiệp cầm hòa. Chân Võ tổ sư nổi giận, cầm gươm Thất tinh nhảy lên trên trợ
chiến. Vương Ác bại tẩu, Huê Quang thả quạ lửa, và quăng hỏa luân theo mà đốt
Vương Ác. Vương Ác hãi kinh, bay qua phủ Huy Châu.
Khi ấy Tát Thủ Kiên đang ở Huy Châu, xảy thấy
Vương Ác chạy tới. Tát Thủ Kiên nổi giận nói rằng: «Con quỹ này đã bỏ Hà Nam,
lại qua Huy Châu mà hại chúng nữa». Nói rồi đưa lệnh bài lên niệm chú. Vương Ác
chạy không khỏi, bị Tát Thủ Kiên bắt được. Liền sai Du thần giải Vương Ác đến
Tổ sư. Vương Ác xin đầu hàng. Chân võ tổ sư bảo uống hỏa đơn, rồi dâng biểu tâu
với Ngọc đế. Ngọcđế phong Vương Ác làm chức Quát lộ Vương nguyên soái; lại ban
cho một tấm kim bài, đề bốn chữ: Xích tâm trung lương. Chân Võ tổ sư nói với
Vương Ác rằng: «Tính của ngươi can cường lắm, nếu lãnh kim bài này có bốn chữ
Xích tâm trung lương, như sau không được y lời, e phải mắc tội». Vương Ác cười
rằng: «Đại trượng phu đã cải tà quy chính, thì phải hết lòng trung lương, xin
thầy đừng ngại điều ấy. Chẳng những tôi giữ mình mà thôi, nếu kẻ nào làm trái
lẽ, thu của nhân gian, tôi cũng đập chết». Chân Võ tổ sư cười rằng: « Đã biết
cứ phép, song phải lấy lòng từ bi mà khuyên người. Sao không nghĩ mình lung
lăng ngày xưa, nào ai đập chết? ». Vương Ác nghe nói hổ ngươi. Chân Võ tổ sư
nói với các tướng rằng: « Từ ta vâng Ngọc chỉ, xuống phàm thu Hắc khí, đến nay
đã hơn mười năm. Thu Hắc khí các nơi đã rồi, song còn Yêu vân[66]ở Tây phương
chưa tan. Vậy thì Châu nguyên soái hãy đem Trang độc đại mà thu Yêu vân Tây
phương, rồi sẽ về đền Linh Tiêu thu lại ». Châu nguyên soái vâng lệnh, đằng vân
qua Tây phương mở túi Trang độc ra mà thu Yêu vân, không dè thu chẳng được.
Khi ấy Châu nguyên soái đằng vân về thưa rằng: «
Túi Trang độc thu ngũ độc khí mà thôi, chứ thu Yêu vân không được ». Chân Võ tổ
sư với chư tướng đồng đằng vân qua phía Tây, đồng quăng bửu bối lên, chẳng
những trừ không được Yêu vân, coi lại nó còn sinh thêm nữa. Chân Võ tổ sư than
rằng: « Như vậy biết tính làm sao mà thu nó cho được. Vậy thì ta phải về thưa
với sư phụ coi dạy lẽ nào ». Nói rồi đằng vân về Thượng giới.
Nói về Diệu Lạc thiên tôn đang ngồi, ngó thấy
Chân Võ tổ sư về liền hỏi rằng: « Ngươi có chuyện chi? ». Chân Võ tổ sư thưa
rằng: « Đệ tử vâng chỉ Ngọc đế đi thu Hắc khí, ba chục năm nay thu Hắc khí các
nơi đủ hết. Duy có Yêu vân tại Tây phương có hơi khói đen, tôi thu hoài không
được không rõ vì cớ chi, phải hỏi thầy cho biết ». Diệu Lạc thiên tôn nói: «
Yêu vân có hơi Hắc khí Tây phương ngươi thu sao nổi. Nếu muốn thu được thì phải
cần một vị Phật giáo mới thành công ». Chân Võ tổ sư thưa rằng: « Chẳng hay vị
Phật thu được Yêu vân là ai đó? ». Diệu Lạc thiên tôn nói: « Tại núi Tuyết Sơn
có một vị thái tử tu đã thành Phật, lại có Diệm Đăng Phật là người quen với Huê
Quang. Vậy thì ngươi đi với Huê Quang đến thọ giáo với Diệm Đăng Phật, rồi nhờ
Diệm Đăng Phật thỉnh Thái tử tại núi Tuyết Sơn, thu Yêu vân mới được ». Chân Võ
tổ sư từ tạ.
Khi ấy Chân Võ tổ sư nói với các tướng rằng: «
Vậy thì các ngươi hãy ở đây mà đợi. Để ta đi với Huê Quang qua Tây phương mà
cầu Phật tử ». Nói rồi bảo Huê Quang đằng vân đi với mình, dẫn đường gặp Diệm
Đăng Phật. Diệm Đăng Phật hỏi: « Chẳng hay hai vị đến bần tăng có việc chi? ».
Chân Võ tổ sư bạch rằng: « Đệ tử ít thần thông nên đến thọ giáo với tôn Phật ».
Diệm Đăng Phật nói: « Tổ sư là đệ tử Diệu Lạc thiên tôn, lại là Kim Khuyết hóa
thân nữa, lẽ nào đi thọ giáo bần tăng làm chi? ». Chân Võ tổ sư bạch rằng: «
Tôi đã thành thần tiên, nay muốn thọ phép Như lai cho được thành Phật ». Nói
rồi liền lạy. Diệm Đăng Phật cười rằng: « Ta biết ý đệ chịu thọ giáo với ta,
đặng nhờ nhờ ta thỉnh con trai Phật tổ là Tuyết Sơn thái tử trợ lực, mà thu Yêu
vân nơi Tây phương ». Chân Võ tổ sư nói phải. Diệm Đăng Phật truyền Văn Thù bồ
tát, với Phổ Hiền bồ tát đi rước Tuyết Sơn thái tử, Văn Thù bồ tát, Phổ Hiền bồ
tát, đồng bạch rằng: « Thái tử là người phàm, nay đã giao việc nước cho con mà
đi tu tại núi Tuyết Sơn, song còn phàm nhân, lẽ nào rước được ». Diệm Đăng Phật
nói: « Nếu hai ngươi không tin, thì biến hóa mà thử ». Phổ Hiền bồ tát và Văn
Thù bồ tát vâng lệnh, đồng đến núi Tuyết Sơn. Văn Thù bồ tát hóa ra con ó. Phổ
Hiền bồ tát biến làm chim se sẻ.
Khi ấy Thái tử đang ngồi, xảy thấy chim se sẻ bị
ó đánh sa trước mặt mình; Thái tử liền giấu chim se sẻ trong áo. Con ó bay
xuống, nói tiếng như người rằng: « Ta là thần ưng[67], nên hình lớn hơn hết,
sức nuốt người ta cũng được. Nay ngươi muốn cứu se sẽ, phải thế một cục thịt
cho ta đỡ lòng ». Thái tử nói: « Ngươi có đói thì ta phải cho ăn, há tiếc một
miếng thịt. Song chẳng có dao mà cắt, vậy thì ngươi đi tha một miếng tre, đem
lại cho ta làm dao mà cắt thịt cho ngươi ăn ». Chim ó gật đầu bay bổng.
Xảy thấy một con cọp rược một con thỏ rừng chạy
tới, con thỏ lại núp dưới chân Thái tử, Thái tử bồng thỏ vô trong mà giấu, rồi
trở ra ngoài. Cọp chạy tới nói rằng: « Ta Yêu hỗ đói bắt thỏ mà ăn. Nếu ngươi
không trả thỏ cho ta, thì ngươi phải thế mạng cho nó ». Thái tử nói: « Con thỏ
nhỏ lắm, ngươi ăn nó cũng không no, vậy thì ta cho ngươi ăn ta cho đỡ đói, song
chẳng nên làm hại con thỏ ta đã cứu ». Nói rồi liền ngồi yên, xảy thấy tòa sen
đở lên, bay về Tây phương.
Khi ấy Phổ Hiền bồ tát, Văn Thù bồ tát liền hóa
tòa sen đến Tây Phương rước Thái tử về ra mắt Diệm Đặng Phật. Diệm Đăng Phật
hỏi hết tự sự thế nào. Rồi mời Chân Võ tổ sư ra mắt. Chân Võ tổ sư nói: « Xin
sư huynh xuống phàm với pháp đệ mà thu Yêu vân, pháp đệ sẽ đền ơn khó ». Thái
tử nói: « Bần tăng mới về Tây phương, ra mắt sư phụ. Chưa có thần thông, e thu
yêu quái không được ». Diệm Đăng Phật nói: « Ta là Nhiên Đăng cổ Phật, biết rõ
quá khứ vị lai, ngươi có đức hạnh, chắc thu đặng Yêu vân, hãy theo Kim Khuyết
hóa thân xuống phàm thu yêu quái, rồi sẽ về đây nghe giảng kinh ». Thái tử tạ
ơn. Rồi đi với Chân Võ tổ sư xuống phàm. Các tướng đồng ra mắt.
Hôm sau, Chân Võ tổ sư dẫn các tướng theo Thái tử
qua Tây phương, đến chỗ Yêu vân khiêu chiến. Xảy thấy một hòa thượng nhảy ra
nói lớn rằng: « Sao các ngươi dám tới động Thiết Nạp[68], mà khích Thích Đầu
tướng quân? ». Chân Võ tổ sư nói: « Ta coi ngươi mang chuỗi bồ đề, cầm gậy tích
trượng, ấy là người tu hành, sao xuống cõi phàm lập động mà hại thiên hạ? ».
Thiết Đầu hòa thượng nói: « Ta ở động ta tại các ngươi sinh sự tìm tới, không
phải ta kiếm các ngươi ». Nói rồi múa gậy sắt mà đánh. Chân Võ tổ sư cự chiến
không lại, các tương trợ chiến cũng thua. Thái tử đi tới, Thiết Đầu hòa thượng
kinh hãi, chạy vào động Thiết Nạp mà bế môn. Các tướng phủ vây ngoài động, dùng
nhiều pháp bửu phá động cũng không nổi. Ân nguyên soái lấy xâu sọ đầu mà đập
vào cửa động. Thiết Đầu hòa thượng tối tăm mày mặt kinh hãi chạy ra, bị Lý
nguyên soái bắt được, đem nộp cho Tổ sư. Chân Võ tổ sư thấy Thiết Đầu hòa
thượng không quỳ, biết ý chẳng phục. Huê Quang nói: « Nó có mạnh chi mà không
phục, dù cho đầu sắt cũng thuộc về loài kim, để tôi nổi lửa đốt nó ». Thiết Đầu
hòa thượng nói: « Ta chẳng chịu đầu hàng, ngươi có nổi lửa thì ta tắm chơi cho
mát ». Các tướng nói: Đừng đốt nó như vậy vô ích hãy lấy bùn sét vùi nó, rồi sẽ
sử dụng chân hỏa mà hầm ». Thiết Đầu hòa thượng kinh hãi nói rằng: « Thôi thôi,
tôi chịu đầu hàng, đừng làm như vậy ». Chân Võ tổ sư nói: « Như ngươi chịu quy
thuận, phải uống thuốc này ». Thiết Đầu hòa thượng uống hỏa đơn rồi, Thái tử
liền từ giã, trở lại Tây phương. Còn Chân Võ tổ sư dâng sớ tâu với Ngọc đế…
Ngọc đế phong Thiết Đầu hòa thượng làm chức Mãnh liệt Thiết nguyên soái, cầm
thiết trượng theo phò tá Tổ sư.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA
Tổ sư thắng trận ban sư
Nói về núi Thạch Lôi, tại núi ấy có nhiều Chư
lôi[69], trước núi ấy có ông Tống trưởng giả, gọi là Tống Ngươn có hai người
con gái, một người mười sáu tuổi, một người mười bốn tuổi. Hai nàng ấy ăn cơm
nơi nhà sau, xẻ dưa gan đem ruột đổ dưới đường mương nhơ uế. Lôi công ở trên
mây coi thấp thoáng, ngở là cơm; nên bắt tội hai nàng ấy hoài hượt hạt ngọc của
trời: liền đả hai nàng chết hết. Hồn hai nàng ấy hỏi rằng: Chẳng hay chị em tôi
tội gì mà bị lôi đã?”. Lôi công nói: “Cơm gạo là báu, thật là hạt ngọc nuôi
người, chị em ngươi ăn dư, đem cơm mà đổ nơi đường mương nhơ uế, ấy là tội phao
phí ngũ cốc, chưa biết tội hay sao?”. Hồn hai nàng ấy nói: “Chị em tôi nào có phao
phí ngũ cốc bao giờ, ấy là đổ hạt dưa gan chứ không phải đổ cơm, sao ông vu oan
giết hai chị em tôi ức lắm”. Lôi công nghe nói liền xuống xem lại, quả thật là
hạt dưa gan. Biết mình lầm rồi, ăn năn không kịp. Túng phải dẫn hồn hai chị em
đem thưa với Lôi sứ giả. Lôi sứ giả nói: “Luận việc ấy thì Lôi công nặng tội
song không phải cố sát, ấy là ngộ thương. Thôi ta xử như vầy thì lưỡng tiện:
Người thác rồi không lẽ cứu sống lại cho được, để ta phong hai chị em ngươi làm
thần. Mà hai chị em ngươi tên họ là chi?”. Hai hồn thưa rằng: “Tôi là Tống Bội
Nương, còn em tôi là Tống Bột Nương đều là con của Tống Ngươn trưởng giả”. Lôi
sứ giả nói: “Vậy thì người chị lãnh mặt kiếng gọi là Lôi điển cảnh. Chị làm Ảnh
Đao nương, em làm Nguyệt Bột Nương, hai chị em ở hai bên. Chị chiếu kiếng làm
chớp, riêng hiệu là Điển mẫu[70]. Chớp rồi coi cho rõ sẽ đánh kẻo lầm, còn
Nguyệt Bột nương cầm cây quạt Khô lâu phiến[71] hễ quạt một cái thì người ấy
chạy không khỏi”. Hai nàng lãnh chức, chị làm Điển mẫu, em làm Nguyệt bột.
Nói về Chân võ tổ sư đi tới núi Thạch Lôi, xảy
nghe sấm nổ ầm ầm, chớp giăng chói mắt. Chân Võ tổ sư xông tới lấy gươm mà chỉ,
hét lớn rằng: “Các ngươi là ai đó?”. Các Lôi thần Lôi sứ đồng quỳ lạy. Chân Võ
tổ sư hỏi: “Các ngươi vì có nào mà ở đây?”. Mấy người ấy thưa rằng: “Bởi anh em
chúng tôi lìa nhau không được, cứ bỏ dinh nhóm lại một nơi. Bởi cớ ấy nên Ngọc
đế phạt anh em chúng tôi ở núi này không được về thượng giới”. Chân Võ tổ sư
hỏi: “Các ngươi muốn theo ta chăng?”. Các Lôi thần Lôi sứ thưa rằng: “Chúng tôi
nghe danh Tổ sư là Kim Khuyết hóa thân, lẽ nào chúng tôi không quy thuận”. Chân
Võ tổ sư nói: “Bởi anh em các ngươi không lìa nhau, ta không nỡ ép. Vậy thì các
ngươi mùa xuân, mùa hạ ở phía nam; mùa thu, mùa đông ở phía bắc”. Các Lôi thần
Lôi sứ và Điển mẫu đều tạ ơn, Chân Võ tổ sư hỏi ra sự tích hai chị em, liền
dâng sớ tâu với Ngọc đế. Ngọc đế phong các vị Lôi thần Lôi sứ làm chức Cửu
Thiên Tích Lịch đại tướng quân; phong Tống Bột Nương làm Nguyệt Bột tinh. Lại
sai Phong Bá là thần làm gió; Vũ sư là thần làm mưa xuống ở theo đó. Chân Võ tổ
sư vui mừng. Thấy Hắc khí đã hết rồi, liền ban sư tâu với Ngọc đế. Ngọc đế mời
ngồi rồi phán rằng: “Nay khanh đã thu hết Hắc khí, trẫm phong làm Cửu Thiên Vạn
Pháp giáo chủ Ngọc Hư soái tướng, Huyền thiên Thượng Đế, Chân Võ Đãng Ma thiên
tôn. Cai trị ba mươi sáu vị thiên tướng và các du thần đi tra xét việc dữ lành
nơi dương thế. Và phải trấn thủ Nam thiên môn đừng cho các tướng trời xuống làm
yêu quái mà phá hại thiên hạ”. Phán rồi thưởng ba chén ngự tửu. Huyền Thiên
Thượng Đế tạ ơn. Ngọc đế phán rằng: “Trẫm ban chỉ gia phong các tướng kể sau
đây:
Vạn Pháp giáo chủ Thần Công Diệu Tế Hứa chân
quân.
Hải Huỳnh Bạch chân quân.
Oai Nghiêm giáo chủ, Tế Vi Truyền Giáo Tổ nguyên
quân.
Động Huyền giáo chủ Tân chân quân.
Thạch Vi giáo chủ Ngụy chân quân.
Hỗn Nguyên giáo chủ Lộ chân quân.
Qui Xà Thủy Hỏa nhị tướng quân.
Đông Chương Kim Luân Như Ý Triệu nguyên soái
(Triệu Công Minh).
Chiêu Minh Dực Hán Hiển Linh Quan nguyên soái
(Quan Công).
Tần Hưng vương Điền nguyên soái phong làm Tuân
Tất nhị nguyên soái.
Tận Trung Trương nguyên soái (Trương Kiện).
Hỗn Khí Bàng nguyên soái (Bàng Kiều).
Cữ Sát Phó nguyên soái (Phó Ứng).
Chánh Nhất Linh Quan Mã nguyên soái (Huê Quang).
Quản Đã Bất Tín Đạo Châu nguyên soái (Châu Ngạn
Phu).
Thôi Lư nhị tướng quân.
Tiên phong Lý nguyên soái (Lý Soái, hiệu là Phụ
Long Lý Sư).
Hàng Yêu Phục Tà Lưỡng nguyên soái (Lưỡng Điền).
Đặng Thành, Tân Giang, Trương An, phong Đặng,
Tân, Trương nguyên soái.
Nhậm Vô Biệt, Trịnh Thế Khoa phong nhị thái bảo.
Ngọc Phủ Lưu thiên quân.
Oai Linh Ôn nguyên soái (Lôi Quỳnh).
Thần Lôi Thạch nguyên soái.
Phong Luân Châu nguyên soái (Châu Quản Trạch).
Hỏa Đức Tạ nguyên soái (Tạ Sĩ Vinh).
Ly Lâu, Sư Khoán, Thông Minh nhị hiền.
Nhân Thánh Khương nguyên soái (Khương Tịch).
Giáng Sinh Cao nguyên soái (Cao Viên).
Phong Đô Mạnh nguyên soái (Mạnh Sơn).
Hổ Khưu Vương Cao nhị nguyên soái (Vương Thiết,
Cao Đồng).
Cửu Châu Hoát Lộ Vương nguyên soái (Vương Ác).
Cửu Thiên Tích Lịch đại tướng quân Lôi Công.
Địa Kỳ Vương nguyên soái (Vương Bưu).
Địa Từ Thái Tuế Ân nguyên soái (Ân Cao).
Mãnh Liệt Thiết nguyên soái (Thiết Đầu).
Lôi Bộ Điển mẫu (Tống Bột Nương).
Nguyệt Bội thiên tinh (Tống Bội Nương)”.
Chân Võ tổ sư là Huyền Thiên Thượng Đế với các
tướng tạ ơn rồi đi phó nhậm.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN
Huyền Thiên xuống phàm cứu khổ
Nói về núi Võ Đương, sông Dương Tử có con tinh
Thủy Loa là con ốc và các con tinh khác thấy Tổ sư chưa về trời thì con tinh ấy
không dấy loạn. Nay nghe Tổ sư về trời, chúng nó lại nổi sóng mà nhận chìm
khách thương trên sông. Huyền Thiên Thượng Đế nổi giận nói rằng: «Thật đúng là
phát cỏ chừa gốc thì nó mọc hoài». Tức thì truyền các thiên tướng thủ thiên
môn, liền xuất hồn xuống núi Võ Đương, đến mé sông ấy nổi lửa phép đốt cạn sông
giết loài thủy tinh, có hai con chạy thoát. Huyền Thiên Thượng Đế ở lại núi Võ
Đương mà chờ nó.
Ngày kia hai con tinh làm sóng mà hại thuyền
người, Huyền Thiên Thượng Đế hiện hình cứu nạn tức thì hết sóng gió, các thuyền
được bình an. Các Long vương đều chầu chực.
Còn bá tính cám ơn cứu nạn của Huyền Thiên nên
lập miếu tại núi Võ Đương lên cốt mà thờ phượng, Huyền Thiên Thượng Đế ứng mộng
bảo lên cốt ba mươi sáu tướng mà thờ hai bên. Hằng hiện hình cứu thiên hạ. Sau
đến triều Minh Hồng Võ cám ơn bảo hộ lập miếu vàng mà thờ. Sau vua Vĩnh Lạc thứ
ba bị Huỳnh Mao thái tử làm phản, đánh vua Vĩnh Lạc đại bại, đang lúc nguy cấp,
Huyền Thiên Thượng Đế dẫn ba mươi sáu vị thiên tướng ở trên mây làm sấm sét,
sai ong và ác thú đón đầu phản tặc mà đánh, phản tặc vỡ tan. Vua Vĩnh Lạc không
biết vị thần nào cứu giá, sai sứ lên cung Thượng thanh mà vời Trương thiên sư
đến đền. Vua Vĩnh Lạc phán rằng: «Trẫm đang đánh với giặc Đáp Tử sắp bại binh,
xảy thấy một vị thần bỏ tóc xã, mặt trắng, râu dài cầm gươm đứng trên mây với
ba mươi sáu thiên tướng cứu giá giết Đáp Tử chết, trẫm không rõ là vị thần nào
?» Trương thiên sư tâu rằng: « Ấy là Huyền Thiên Thượng Đế. Sau có Phật chỉ
phong Huyền Thiên Thượng Đế làm Vô Lượng Thọ bồ tát, phong Quan Công làm Dà
Lam, phong Huê Quang là Kiết Tường bồ tát, miếu thờ tại núi Võ Đương ». Vua
Vĩnh Lạc ngự giá đến miếu dâng hương. Rồi truyền chỉ là chùa rất lớn, lên cốt
bằng vàng oai nghiêm hơn trước. Truyền chỉ rước Trương thiên sư đến làm chay
bảy ngày đêm, dùng bốn mươi tám đạo sĩ ở chùa ấy lo hương khói. Tặng là chùa
Bắc Đế; lại cấp năm trăm mẫu ruộng chùa, xảy thấy dưới sông nổi lên một cái
chuông trôi tấp vào mé. Vua liền sai đem lên đặt trong chùa Bắc Đế tục truyền
rằng Long vương dâng chuông. Từ ấy về sau thiên hạ quan dân có sự chi, đều đến
miếu khẩn cầu đều linh ứng tất cả.
Đến khi nước Nam có nạn, Bắc đế có phò giúp nên
đúc hình bằng đồng đen. Tục gọi là ông thánh Đồng Đen, chứ thật ra là Huyền
Thiên Bắc đế.
HẾT
[1] Giáng sinh, hóa thân đều là đầu thai.
2 Tiếp Thiên Thọ: Cây cao thấu trời.
[3] Quý trạch: nhà quý.
[4] Bửu thọ: cây báu.
[5] Thiên tử không nói chơi.
[6] Đền Tam Thanh, chỗ Thái Thượng, Ngươn Thủy và
Linh Bửu ở.
[7] Tiên trưởng là tiên lớn hơn hết.
[8] Quân Hổ bôn: mạnh như cọp, ngự lâm quân.
[9] Tùy giá: đi theo vua.
[10] Cốt cách thần tiên.
[11] Vua nước Kỳ Xà hiệu là Thành An vương.
[12] Liên mẫn: thương xót.
[13] Trở lại gốc cũ.
[14] Dã nhân: người sơn dã (người đồng nội quê
mùa).
[15] Hạ bang: nước nhỏ. Thượng bang: nước lớn.
[16] Hạ công: mừng công trận.
[17] Thiện vị: nhường ngôi.
[18] Phó tướng: phó nguyên soái.
[19] Diệu Lạc thiên tôn: một vị thánh sư.
[20] Tiểu thuật: phép mọn.
[21] Ngộ tử: chết lầm.
[22] Thất tinh: bảy cái sao bắc đẩu, chạm trong
gươm bằng cây.
[23] Hạng là mồ hôi. Hạng mã là người cởi ngựa
đánh giặc đổ mồ hôi.
[24] Háo sát, ưa giết.
[25] Gia sư: thầy mình.
[26] Sơn nhân: người núi, nhân đứng gần chữ sơn
là chữ tiên.
[27] Bụi hường: là hồng trần, bụi đỏ.
[28] Hưởng nhàn: hưởng sự thanh nhàn.
[29] Cố viên: vườn cũ.
[30] Cơ hàn: thiếu thốn, cực khổ.
[31] Cầu tự: cầu con kế tự.
[32] Quan chỉ huy: thống chế chức võ.
[33] Sơn nhân: người ở núi, chữ nhân đứng gần chữ
sơn là chữ tiên.
[34] Tùy giá: theo bảo hộ vua.
[35] Khánh hạ: ăn mừng.
[36] Từ quân: là vua để dành (Thái tử).
[37] Qui ninh: con gái có chồng về thăm cha mẹ.
[38] Suy quan: coi về việc bảo cử, cũng như phái
viên đời này.
[39] Kim đao: đao bằng vàng
[40] Vô Sinh điện: đền Vô Sinh.
[41] Phong luân: bánh xe gió.
[42] Đồ chứa độc.
[43] Quạt tiêu diêu.
[44] Đoan ngũ: đầu tháng ngọ mồng năm tháng năm.
[45] Búa việt như búa đồng.
[46] Kim chung: chuông vàng.
[47] Hướng mã: ăn cướp lộ.
[48] Khâm thiên giám: quan Thiên văn.
[49] Lôi tổ: chúa lôi công.
[50] Động ấy toàn sắc đá trắng.
[51] Ngọc chỉ: chiếu chỉ Ngọc đế.
[52] Thiên điều: phép trời, ngọc luật: luật Ngọc
đế.
[53] Thiên trướng: mùng che trời.
[54] Hàng yêu: trừ yêu.
[55] Phi tiên: roi biết bay.
[56] Phong hỏa luân: bánh xe chạy có gió có lửa.
[57] Ôn dược: thuốc độc uống vào thì thổ tả.
[58] Vô câu tiên hớn: không cấm dường này, ra vào
đền Linh Tiêu tự ý.
[59] Lai kiếp: kiếp về sau.
[60] Lôi tiên: roi sấm, đánh nhằm thì sấm nổ.
[61] Thủy nguyên mộc bổn: nước có nguồn cây có
cội.
[62]
Chiếu ma cảnh: gương soi ma.
[63] Nam Bắc giới: ranh Nam Bắc.
[64] Bạch Hồng Sách: dây nửa trắng nửa đỏ.
[65] Kim tiên: roi bằng vàng.
[66] Yêu vân: mây yêu.
[67] Thần ưng: ó thần.
[68] Thiết Nạp: áo phá nạp bằng sắt.
[69] Chư lôi:
các Lôi công
[70] Điển mẫu: bà chớp.
[71] Khô lâu phiến: Quạt có cán bằng xương người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét